Thứ Sáu, 16 tháng 1, 2015

Thất giác chi

1- Niệm Giác Chi
2- Tinh Tấn Giác Chi
3- Khinh An Giác Chi
4- Hỷ Giác Chi
5- Định Giác Chi
6- Xả Giác Chi
7- Trạch pháp Giác Chi
Khi Bảy Giác Chi xuất hiện đầy đủ thì chúng ta có đủ Tứ Thần Túc:
1-     Tinh Tấn Như Ý Túc
2-     Định Như Ý Túc
3-     Tuệ Như Ý Túc
4-     Dục Như Ý Túc
Khi có Bốn Như Ý Túc thì mới nhập được Tứ Thánh Định, còn chưa có Bốn Như ý Túc thì không bao giờ nhập Tứ Thánh Định được, do đó ai nói nhập thiền định bảy tám ngày hay sáu bảy tháng là nhập thiền định tưởng.
Cho nên khi người nào nói về thiền mà nói không đúng lời dạy của Phật là biết ngay họ là những người chịu ảnh hưởng pháp thiền của ngoại đạo, còn không là những người nghiên cứu kinh sách rồi nói ra thì chúng ta cũng biết ngay họ là những người sống trong kiến giải tưởng chớ không biết cách thức nhập thiền định nào cả.
Như đức Phật dạy khi nào chúng ta tu chứng thì mới dám dạy người tu, còn chưa chứng thì đừng dạy, nếu dạy sẽ đưa người ta vào con đường thiền tưởng như hiện giờ các sư các thầy từ Nam Tông đến Bắc Tông tu chưa xong mà dạy người tu nên thầy trò tu thiền mà vào bệnh viện trị bệnh, thật là xấu hổ vô cùng.
Thiền sư dạy người tu thiền là phải làm chủ bệnh, chớ thiền sư gì mà chết trong bệnh ung thư như thiền sư ni Ayya Khema. Thiền sư đã viết 25 tác phẩm nói về thiền và Phật giáo, nhưng cái chết của thiền sư thì sách của thiền sư không còn giá trị nữa. Vì thiền còn bệnh tật là thiền ngoại đạo.
Nếu người nào tu theo đúng pháp của Phật tâm Bất Động trên Tứ Niệm Xứ như trên đã dạy thì nhập từ Sơ thiền đến Tứ thiền thì tất cả bệnh đau trên thân đều đuổi ra khỏi thân. Và chính Tứ thiền là pháp môn làm chủ sự sống chết, có nghĩa hành giả nhập được Tứ thiền thì tịnh chỉ được hơi thở, nhờ đó muốn sống chết hồi nào thì cũng rất tự tại, chết là chết ngay liền. Thiền định như vậy mới thật sự là thiền định của Phật giáo.
Nhìn lại từ Đông sang Tây biết bao nhiêu là thiền sư. Ông thì bị xe đụng chết, ông thì đi nằm bệnh viện rồi chết, những bệnh của quý vị thiền sư đều thuộc về loại bệnh nan y.
Khi được làm thiền sư dạy đạo thì phật tử dâng cúng những thực phẩm ngon bổ, càng ngon bổ thì càng độc, do đó “thích” ăn ngon bổ nên không có vị nào thoát khỏi những bệnh nan y.
Đạo Phật ly dục ly bất thiện pháp thế mà thiền sư còn thích ăn ngon bổ vậy xưng là thiền của Phật giáo thì thiền của Phật giáo làm sao có thiền như vậy được.
Tu hành chưa nhiếp được tâm bao nhiêu mà đi dạy người khác tu thật là những người đang “háo danh” muốn mình làm thầy thiên hạ. Thật đáng chê trách.
Muốn làm thầy dạy người tu tập thì phải có đủ Bảy Năng Lực Giác Chi, nếu chưa có thì nên im hơi, lặng tiếng để lo tu tập cứu mình ra khỏi biển khổ. Đó là điều duy nhất quý vị nên làm, đừng nghĩ đến ai cả mà hãy nghĩ đến mình.
Muốn tu tập có Bảy Năng Lực Giác Chi thì phải tìm hiểu pháp nào tu tập mà có Bảy Năng Lực Giác Chi, chớ không phải từ trên pháp môn Bảy Giác Chi tu tập mà có Bảy Giác Chi, quý vị nên nhớ kỹ bài pháp các “THỨC ĂN”. Nếu quý vị không biết pháp nào tu tập có Bảy Năng Lực Giác Chi thì hãy lắng nghe đức Phật dạy:“Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Năng Lực Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy”.
Theo như lời dạy trên đây của đức Phật thì Bốn Niệm Xứ là pháp môn tu hành sinh ra Bảy Năng Lực Giác Chi. Vậy cách thức tu tập Bốn Niệm Xứ như nào?
Như trong kinh Bốn Niệm Xứ đức Phật đã dạy tu tập như sau:

Bài pháp thứ chín: Căn cứ vào đâu mà biết ba mươi bảy phẩm trợ đạo là của Phật giáo

Do  đâu chúng tôi căn cứ mà biết Ba Mươi Bảy Pháp Môn này là của đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng, do từ các kinh sách Nguyên Thủy, xin quý vị hãy nghiên cứu tạng kinh Nikaya do HT Minh Châu dịch từ tiếng PALI sang Việt ngữ. Nhất là chúng tôi căn cứ vào bài pháp “THỨC ĂNtrong kinh Nikayađể giải nghĩa rõ ràng. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Minh Giải Thoát (Tam Minh)? Bảy Giác Chi, cần phải trả lời như vậy”.
Minh Giải thoát tức là Ba Minh:
1- Túc Mạng Minh
2- Thiên Nhãn Minh
3- Lậu Tận Minh
Túc Mạng Minh là một trí tuệ siêu việt của Phật giáo. Ai tu hành có được trí tuệ này thì nhìn về quá khứ biết rõ nhiều đời nhiều kiếp của mình và của những người khác. Biết kiếp trước chúng ta sinh ở nước nào, làng nào, xã nào, huyện nào, tỉnh nào, tên gì họ gì, nghèo giàu đều biết rất rõ, nhờ trí tuệ này mới biết người chết đây sinh kia chứ không có linh hồn đi đầu thai xuống địa ngục hay lên thiên đàng hay sống theo con cháu bốn mươi chín ngày để làm tuần, làm tự rồi mới tái sanh kiếp khác. Đó là sự tưởng tượng của các tôn giáo còn lạc hậu mê tín.
Thiên Nhãn Minh là một trí tuệ thứ hai, nó quan sát không gian vũ trụ không chỗ nào là không thấy. Không có một vật gì trong không gian vũ trụ mà nó bỏ sót dù vật ấy rất nhỏ như hạt vi trần. Xưa đức Phật dùng Thiên Nhãn Minh nhìn vào một ly nước và tuyên bố rằng trong ly nước có vô lượng trùng. Thời gian đó ít ai tin nhưng thời đại khoa học có kính hiển vi và thiên văn kính họ bảo rằng đức Phật nói không sai.
Lậu Tận Minh là một trí tuệ thứ ba thấu suốt mọi vật, mọi pháp trên thế gian này không có pháp nào thường còn toàn là vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta chỉ là theo các duyên hợp mà thành ra vạn vật, vạn pháp rồi cũng theo các duyên tan mà vạn vật, vạn pháp hoại diệt, chứ không có một đấng Vạn Năng nào sinh thành và cũng không có một đấng Sa Tăng nào diệt vạn vật.
Cho nên, không ai làm khổ mình và mình cũng không làm khổ ai, chỉ có 12 duyên tan hợp mà khổ đau trùng trùng diễn tiếp khổ này đến khổ khác. Do trí tuệ Lậu Tận Minh mà đức Phật thấy con người sống trong lậu hoặc nên chịu đau khổ vô vàn.
Người tu hành muốn có được ba trí tuệ này thì phải thực hiện TÂM BẤT ĐỘNG trên Tứ Niệm Xứ bảy ngày đêm. Khi sống được bảy ngày đêm TÂM BẤT ĐỘNG thì Bảy Năng Lực Giác Chi lần lược xuất hiện:

Bài pháp thứ tám: Tứ như ý túc

1-     Định Như Ý Túc
2-     Tinh Tấn Như Ý Túc
3-     Tuệ Như Ý túc
4-     Dục  Như Ý túc
Trên đây là BỐN pháp, pháp môn này là pháp môn thứ tám của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại trong kinh Nguyên Thủy.
Tổng cộng lại tất cả các pháp tu tập của đạo Phật chúng ta có đúng là BA MƯƠI BẢY PHÁP MÔN, ngoài ba mươi bảy pháp môn này để thực hiện trọn đủ trong chương trình BÁT CHÁNH ĐẠO. Thì không còn pháp môn nào khác nữa xin quý vị lưu ý đừng để giáo pháp ngoại đạo lừa đảo.
Đạo Phật chỉ có ba mươi bảy môn tu tập này mà thôi nó không còn một pháp môn nào khác nữa. Nếu còn có pháp môn nào ngoài ba mươi bảy pháp pháp môn này thì đó là pháp môn của ngoại đạo.
Bởi vậy Phật giáo có pháp môn riêng của Phật giáo mà ngoại đạo không bao giờ có những pháp môn ấy, cho nên ngoại đạo không thể nào mạo nhân pháp môn của mình là pháp môn của Phật giáo được. Kinh sách Đại Thừa và kinh sách Thiền Tông muốn mạo nhận những kinh sách này là của Phật thuyết nhưng không làm sao được nên Đại Thừa và Thiền Tông mới nghĩ ra phương cách gạt tín đồ bằng cách dựng lên những trang thiền sử có 33 vị Tổ sư thiền Ấn Độ và Trung Quốc. Kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông làm trái ngược lại với lời di chúc của đức Phật trước khi nhập Niết Bàn: “Này các thầy tỳ kheo, sau khi Ta nhập diệt các thầy tỳ kheo hãy lấy GIỚI LUẬT và Giáo Pháp (TỨ NIỆM XỨ) của Ta làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc, không nương tựa một điều gì khác, đừng lấy ai làm thầy cả”. Kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông làm sao gạt được khi kinh sách nguyên thủy còn ghi lại lời di chúc đó. Ba mươi bảy pháp môn của Phật còn kia thì bộ mặt dối trá bị lật tẩy quý vị có thấy không?
Quý vị cũng biết kinh sách Phát triển Đại Thừa và kinh sách Tối Thượng Thừa của Thiền Tông Trung Hoa cố ý mạo nhận là Phật thuyết, nên xếp kinh A Hàm những lời đức Phật dạy vào hàng Tiểu Thừa để lừa đảo mọi người. Nhưng khi đọc kinh Nikaya nguyên gốc của Phật mới biết Đại Thừa và Tối Thượng Thừa là kinh sách của Phật giáo Trung Quốc chịu ảnh Khổng giáo và Lão giáo rất nặng, cho nên kinh sách Đại Thừa và kinh sách Tối Thượng Thừa không còn là Phật giáo nguyên thủy.
Kinh sách Đại Thừa và kinh sách Tối Thượng Thừa là kinh sách lai căng nhưng nó lúc nào cũng muốn làm đàn anh của Phật giáo nên mới bày ra nhiều thủ đoạn để diệt kinh sách Phật giáo nguyên thủy, có diệt kinh sách nguyên thủy thì mới có thể thay thế kinh sách Đại Thừa và kinh sách Thiền Tông vào. Kinh sách Đại Thừa và kinh sách Tối Thượng Thừa tu hành không bao giờ làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT. Cho nên kinh sách này không bao giờ dám đá động đến việc tu tập làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi.

Bài pháp thứ bảy: Thất giác chi

Thất Giác Chi gồm có:
1-  Niệm Giác Chi
1-     Tinh Tấn Giác Chi
2-     Khinh An Giác Chi
3-     Hỷ Giác Chi
4-     Định Giác Chi
5-     Xả Giác Chi
6-     Trạch pháp Giác Chi
Trên đây là BẢY pháp, pháp thứ bảy của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy.
Khi chúng ta tu tập tác ý tâm BẤT ĐỘNG mà chỉ còn có một tâm BẤT ĐỘNG từ giờ này đến giờ khác mà không có một niệm nào xen vào chỗ tâm BẤT ĐỘNG là chúng ta đã đạt được NIỆM GIÁC CHI. NIỆM GIÁC CHI tức là tâm BẤT ĐỘNG trên TỨ NIỆM XỨ (trên thân quán thân).
Lúc nào chúng ta cũng thấy siêng năng trong trạng thái thân tâm BẤT ĐỘNG trên TỨ NIỆM XỨ thì đó là TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện tâm BẤT ĐỘNG, AN LẠC, NHẸ NHÀNG thì đó là KHINH AN GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái KHINH AN, GIÁC CHI có một niềm vui hoan hỷ thì đó là HỶ GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái HỶ GIÁC CHI kéo dài từ ngày này sang ngày khác mà không mất trạng thái này là ĐỊNH GIÁC CHI xuất hiện. Trên trạng thái ĐỊNH GIÁC CHI này kéo dài mãi suốt bảy ngày đêm, không có một niệm nào xen vô xen ra thì đó là XẢ GIÁC CHI. Khi XẢ GIÁC CHI xuất hiện thì tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn, lúc bấy giờ tâm không còn ngũ triền cái và bảy kiết sử nữa. Khi NGŨ TRIỀN CÁI và THẤT KIẾT SỬ bị diệt trừ tận gốc thì TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện. Khi TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện thì tâm chúng ta đầy đủ TỨ NHƯ Ý TÚC.

Bài pháp thứ sáu: Tứ niệm xứ

Tứ Niệm Xứ gồm có:
1-     Quán thân trên thân
2-     Quán thọ trên thọ
3-     Quán tâm trên tâm
4-     Quán pháp trên pháp
Pháp môn TỨ NIỆM XỨ là một pháp môn tu tập để chứng đạo, pháp môn này là một pháp môn rất quan trọng cho sự chứng đạo, nếu ai không tu tập pháp môn này thì không bao giờ chứng đạo, cho nên chúng ta cần phải thông suốt đường lối tu tập như thế nào đúng và như thế nào sai.
Một lần nữa chúng tôi xin nhắc quý vị: phải tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN rồi sau mới tu tập đến pháp môn TỨ NIỆM XỨ, nếu không biết thì đừng tu tập mà có tu tập thì chỉ uổng công mà thôi.
Đừng nghe nói pháp môn TỨ NIỆM XỨ mà ham tu cao. Pháp môn TỨ NIỆM XỨ dành cho những bậc giới luật nghiêm túc, dành cho những bậc tâm đã BẤT ĐỘNG trước các ác pháp và các cảm thọ, chớ không phải pháp môn này ai cũng muốn tu tập là tu tập được. Nếu quý vị tu tập mà không biết khả năng trình độ của mình thì đó là tu tập sai pháp xin quý vị cần quan tâm.
Dưới đây là pháp môn TỨ NIỆM XỨ, một pháp môn dành cho những người đã tu tập xong NGŨ CĂN, NGỮ LỰC và TỨ CHÁNH CẦN.
TỨ NIỆM XỨ là pháp môn thứ sáu của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy. TỨ NIỆM XỨ theo BÁT CHÁNH ĐẠO thì nó là CHÁNH NIỆM. Vậy trạng thái CHÁNH NIỆM như thế nào?
Trạng thái CHÁNH NIỆM là một trạng thái tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ, tâm luôn luôn tỉnh giác trên bốn chỗ THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP. Cho nên TỨ NIỆM XỨ gọi là TRÊN THÂN QUÁN THÂN. Tuy nói rằng trên thân quán thân nhưng sự thật là trên THÂN quán cả bốn chỗ THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP.
Tuy nói bốn pháp chớ khi tu tập chỉ có tu tập một pháp TRÊN THÂN QUÁN THÂN mà thôi.
Pháp môn TỨ NIỆM XỨ là pháp môn nhiếp tâm BẤT ĐỘNG cuối cùng của Phật giáo, vì chính người tu tập sống được với tâm BẤT ĐỘNG là đã chứng đạo. Ở đây không còn tu pháp môn nào khác nữa. Cho nên pháp môn TỨ NIỆM XỨ được xem là pháp môn tu tập cuối cùng của Phật giáo gọi là CHÁNH NIỆM. Nơi đây tất cả năng lực làm chủ thân tâm sẽ được xuất hiện trên mãnh đất BẤT ĐỘNG. BẢY GIÁC CHI cũng xuất hiện đầy đủ trên tâm BẤT ĐỘNG này. Vì thế quý vị đừng vội vàng tu tập TỨ NIỆM XỨ mà nên xét lại tâm mình đã BẤT ĐỘNG chưa, nếu tâm BẤT ĐỘNG thì mới tu tập TỨ NIỆM XỨ, còn chưa thì nên trở lại tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN.

Bài pháp thứ năm: Tứ chánh cần

Tứ Chánh Cần gồm có:
1- Ngăn ác pháp
2- Diệt ác pháp
3- Sinh thiện pháp
4- Tăng trưởng thiện pháp
Trên đây là bốn pháp tu tập của pháp môn TỨ CHÁNH CẦN. Pháp môn TỨ CHÁNH CẦN là pháp  môn thứ năm của Phật giáo theo lời dạy của đức Phật còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy.
Bốn pháp này rất quan trọng trong sự tu tập theo Phật giáo. Đây là một phương pháp giúp cho người tu sĩ Phật giáo hằng ngày sống trong thiện pháp, sống trong tâm BẤT ĐỘNG.
Ai cũng biết mục đích của Phật giáo là sống trong tâm BẤT ĐỘNG. Muốn tâm BẤT ĐỘNG thì hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày phải siêng năng tu tập NGĂN ÁC, ngăn ác pháp tức là ngăn từng tâm niệm THAM, SÂN, SI, MẠN, NGHI. Khi có niệm khởi lên trong tâm thì hãy mau mau dùng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý  làm cho niệm đó dừng lại và tan biến mất. Khi niệm đó dừng lại và tan biến mất thì để lại một khoảng thời gian ngắn trong tâm BẤT ĐỘNG rồi có niệm khác khởi lên, khi có niệm khác khởi lên như vậy thì chúng ta lại tác ý ngăn chặn niệm ấy thì niệm ấy dừng lại và tan biến mất, lúc bấy giờ để lại cho tâm chúng ta BẤT ĐỘNG một khoảng thời gian ngắn nữa.
            Hằng ngày chúng ta chỉ cần tu tập một pháp NGĂN ÁC là có đủ bốn pháp DIỆT ÁC, SINH THIỆN, TĂNG TRƯỞNG THIỆN PHÁP. Cho nên tu tập TỨ CHÁNH CẦN không phải tu cả bốn pháp mà chỉ tu tập một pháp mà thôi.
Khi vào tu tập chúng ta nên lấy pháp môn đầu tiên của TỨ CHÁNH CẦN mà tu tập đó là pháp môn NGĂN ÁC.
NGĂN ÁC tức là ngăn các niệm khởi, nhưng trong tâm chúng ta có niệm thiện khởi thì chúng ta phải làm sao?
Dù niệm đó thiện nhưng vì tâm chúng ta chưa ly dục ly ác pháp hết nên thiện đó vẫn còn là ác pháp chớ không phải là thiện pháp thật sự.
Hiện giờ trong tâm chúng ta có một niệm thiện duy nhất đó là niệm thiện tâm BẤT ĐỘNG. Cho nên trong pháp môn TỨ CHÁNH CẦN dạy SINH THIỆN TĂNG TRƯỞNG THIỆN, tức là niệm thiện TÂM BẤT ĐỘNG, niệm này thì không nên diệt mà phải tăng trưởng sống cho được với TÂM BẤT ĐỘNG này, còn tất cả niệm thiện khác đều diệt sạch. Nhưng khi tâm khởi ra niệm thì phải mau mau đình chỉ không cho chúng hoạt động, do ngăn các niệm khởi nên tâm sẽ BẤT ĐỘNG.
            Tâm sẽ BẤT ĐỘNG là chúng ta đã đạt được mục đích giải thoát của Phật giáo. Vì thế chúng ta chỉ cần tu một pháp mà thôi, pháp NGĂN ÁC là đủ rồi. Cho nên nói tu tập TỨ CHÁNH CẦN chớ thực ra chỉ có tu tập pháp NGĂN ÁC. Pháp NGĂN ÁC là pháp đầu tiền trong bốn pháp của pháp môn TỨ CHÁNH CẦN.  Xin quý vị lưu ý trong khi tu tập pháp môn này.
Con đường tu tập theo Phật giáo nếu không tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN thì không bao giờ tu tập pháp nào có giải thoát cả, vì pháp môn TỨ CHÁNH CẦN rất quan trọng, nó là đệ nhất pháp XẢ TÂM của Phật giáo. Cho nên những ai không tu tập TỨ CHÁNH CẦN mà tu tập các pháp môn khác là không biết đường lối tu tập của Phật giáo. Không biết đường lối của Phật giáo mà tu tập thì tu tập sai làm mất căn bản con đường tu tập của mình.
Pháp môn TỨ CHÁNH CẦN như đội quân tiền phong luôn luôn đi trước khai sơn phá thạch để cho cả một quân đoàn thiện chiến tiến sâu vào căn cứ giặc, nhờ đó nó mới san bằng những căn cứ của giặc để TỨ NIỆM XỨ đến thành lập chánh quyền cai trị.
Cho nên những ai tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ mà chưa tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN là không biết đường lối tu tập. Tu như vậy là sai, chẳng bao giờ có giải thoát, vì tu lộn ngược pháp, pháp trước ra sau pháp sau ra trước.
Xin lưu ý quý vị pháp môn TỨ CHÁNH CẦN bao giờ cũng tu tập trườc pháp môn TỨ NIỆM XỨ.

Bài pháp thứ tư: Tứ bất hoại tịnh

1-     Niệm Phật
2-     Niệm Pháp
3-     Niệm Tăng
4-     Niệm Giới
Trên đây là BỐN pháp, pháp thứ tư của Phật giáo theo lời dạy của Phật còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy. Bốn pháp niệm Phật này không giống pháp môn niệm Phật trong kinh sách Đại Thừa. Bốn pháp môn niệm Phật này dạy chúng ta sống như Phật, sống như các pháp, sống như chúng thánh Tăng đệ tử của Phật và sống như giới luật.
Chữ niệm ở đây không có nghĩa là niệm lầm thầm trong miệng mà chữ niệm ở đây có nghĩa là bắt chước, làm theo từng hành động cho đúng những oai nghi chánh hạnh của những bậc chân tu.
Trong bốn pháp môn này cũng là một chùm pháp, nếu chúng ta chỉ cần tu một pháp trong bốn pháp này thì cũng thành tựu luôn cả bốn pháp kia, vì một pháp là cả bốn pháp.
Ví dụ: Tu tập pháp thứ nhất là NIỆM PHẬT trong pháp môn TỨ BẤT HOẠI TỊNH thì cũng giống như tu tập NIỆM PHÁP, NIỆM TĂNG và NIỆM GIỚI. Cho nên tuy nói là bốn pháp, có bốn tên khác nhau nhưng khi thực hành thì trong bốn pháp này không khác nhau. NIỆM PHẬT cũng giống như NIỆM PHÁP, NIỆM PHÁP cũng giống như NIỆM TĂNG, NIỆM TĂNG cũng giống như NIỆM GIỚI, vì Phật sống như PHÁP, như GIỚI và như CHÚNG THÁNH TĂNG. Cho nên người sống giống như Phật là người sống không sai PHÁP, người sống không sai PHÁP là người sống không sai khác CHÚNG THÁNH TĂNG; sống không sai khác CHÚNG THÁNH TĂNG là sống đúng GIỚI LUẬT.
Muốn tu tập pháp môn NIỆM PHẬT TỨ BẤT HOẠI TỊNH thì chỉ tu một pháp môn NIỆM PHẬT mà thành tựu bốn pháp: niệm PHẬT, niệm PHÁP, niệm TĂNG, niệm GIỚI.
Khi tu tập NIỆM PHẬT TỨ BẤT HOẠI không hợp với đặc tướng của mình nên thường bị niệm vọng tưởng khởi hay bị hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan không tấn công thì chúng ta nên thay đổi pháp tu tập. Thay đổi pháp tu tập thì chúng ta tu tập ngay pháp môn TỨ CHÁNH CẦN.
Tuy pháp môn TỨ CHÁNH CẦN có bốn pháp tu tập, nhưng kỳ thực chỉ tu tập một pháp mà thôi.
Dưới đây là pháp môn tu tập TỨ CHÁNH CẦN. Pháp môn TỨ CHÁNH CẦN là pháp thứ năm trong Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo của Phật giáo.

Bài pháp thứ ba: Tứ vô lượng tâm

Tứ Vô  Lượng Tâm gồm có:
1-     Từ Vô Lượng Tâm
2-     Bi Vô Lượng Tâm
3-     Hỷ Vô Lượng Tâm
4-     Xả Vô Lượng Tâm
Trên đây làbốn pháp, Tứ Vô Lượng Tâm là pháp thứ ba của Phật giáo trong Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo. Khi tu tập bốn pháp này giúp cho tâm chúng ta mở rộng LÒNG YÊU THƯƠNG đến với muôn loài. Nhờ LÒNG YÊU THƯƠNG ấy mà không có một ác pháp nào tác động vào thân tâm chúng ta được, tức là chúng ta biết buông xả mọi ác pháp bằng LÒNG THƯƠNG YÊU. Cho nên gọi nó là TỨ VÔ LƯỢNG TÂM nghĩa là pháp môn dạy chúng ta mở rộng lòng thương yêu rộng lớn như đất trời.
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM chỉ có Phật  giáo mới có mà thôi, nó còn ghi lại trong kinh sách Nguyên Thủy cho đến ngày nay. Nếu quý vị không đủ lòng tin thì hãy tìm ngay kinh tạng Pali do Hòa Thượng Minh Châu dịch.
Bắt đầu tu tập TỨ VÔ LƯỢNG TÂM thì nên tu tập tâm từ. TỪ VÔ LƯỢNG TÂM có nghĩa là LÒNG YÊU THƯƠNG rộng lớn như đất trời phủ trùm vạn vật không chỗ nào là không có LÒNG THƯƠNG YÊU ấy.
LÒNG YÊU THƯƠNG ấy không có một vật gì mà không thương yêu, thương yêu từ cây cỏ đất đá núi sông, từ không khí ánh sáng mặt trời mặt trăng, các tinh tú ngày đêm đều thương yêu cả.
TỪ VÔ LƯỢNG TÂM có nghĩa là LÒNG YÊU THƯƠNG tất cả muôn loài còn đang sống, còn đang hít thở không khí, còn đang hoạt động, rung động theo không gian và thời gian.
Người tu tập lòng TỪ VÔ LƯỢNG TÂM là người tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác, nhờ có TĨNH GIÁC nên chúng ta mới thực hiện TỪ VÔ LƯỢNG TÂM, nhờ có TỪ TÂM VÔ LƯỢNG chúng ta mới buông xả tất cả ác pháp một cách dễ dàng.
Khi thực hiền được TỪ TÂM VÔ LƯỢNG thì đồng thời là BI TÂM VÔ LƯỢNG, HỶ TÂM VÔ LƯỢNG và XẢ TÂM VÔ LƯỢNG cũng xuất hiện một lược.
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM tuy nói là bốn pháp, nhưng chỉ tu tập thành tựu một pháp là ba pháp kia đều xuất hiện đủ. Đây gọi là một chùm pháp, chúng ta nên chọn một trong bốn pháp này, pháp nào mà mình ưa thích nhất là pháp đó đúng đặc tính của mình.
Nếu chúng ta có duyên với pháp môn TỪ VÔ LƯỢNG TÂM thì tu tập rất thích thú và kết quả tu tập đâu là đạt được ngay liền. Còn nếu chúng ta tu tập mà không có kết quả tức là chúng không có duyên với pháp môn này thì chúng ta nên thay đổi pháp tu tập. Chúng ta nên chuyển qua tu tập pháp môn NIỆM PHẬT TỨ BẤT HOẠI TỊNH. NIỆM PHẬT TỨ BẤT HOẠI TỊNH. là pháp thứ tư trong ba mươi bảy pháp tu tập của Phật giáo.
Pháp môn NIỆM PHẬT TỨ BẤT HOẠI TỊNH là một pháp môn mà người ta lầm tưởng là pháp môn Tịnh Độ, Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn niệm danh hiệu Phật Di Đà, dùng câu Di Đà ức chế ý thức để tưởng thức xuất hiện hoạt động, nên trong kinh Di Đà dạy: “Thất nhật nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền”. Câu này có nghĩa là niệm Phật Di Đà bảy ngày đêm tâm không loạn thì sẽ thấy cảnh giới Cực Lạc Tây Phương và Thánh chúng. Khi chúng ta ức chế ý thức không hoạt động thì liền ngay đó tưởng thức hoạt động, khi tưởng thức hoạt động thì một thế giới ảo xuất hiện như cảnh giới trong giấc chiêm bao.

Bài pháp thứ hai: Ngũ Lực

Ngũ lực gồm có:
1-     Tín lực
2-     Tấn lực
3-     Niệm lực
4-     Định lực
5-     Tuệ lực
Khi tu tập pháp môn NĂM CĂN ở trên tức là dùng ý thức giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân thanh tịnh không cho NĂM CĂN chạy theo năm trần thì chúng ta đạt được năm thành quả, đó là NGŨ LỰC. NGŨ LỰC là pháp thứ II mà trong kinh sách Nguyên Thủy còn ghi lại và lưu giữ cho đến ngày nay.
Tóm lược pháp tu tập NGŨ LỰC, trước tiên chúng ta muốn tu tập TÍN LỰC thì phải hiểu nghĩa rõ ràng. TÍN LỰC có nghĩa là lòng tin sâu sắc đối với Phật pháp không bao giờ thay đổi, lòng tin bất di bất dịch dù cho ai chống trái bài bác Phật giáo chúng ta cũng không bao giờ nghe, không bao giờ thay lòng đổi dạ, chỉ biết tin vào pháp Phật.
Muốn có được lòng tin như vậy thì chúng ta phải sinh ra cùng thời với đức Phật ra đời hoặc phải sinh làm người được gặp một bậc tu chứng cũng làm chủ sinh, già, bệnh, chết như Phật.
Đó là điều cần thiết tạo nên TÍN LỰC, nếu không có điều kiện này thì dù muốn dù không lòng tin của chúng ta không mạnh mẽ, chỉ tin một cách cạn cợn.
Người không đủ lòng tin dù có tu tập đúng pháp của Phật thì cũng chỉ tu tập lấy có, thường phá hạnh độc cư, đi nói chuyện người này đến người khác. Những người này hiện thân là MA BA TUẦN trong Phật giáo thường đi đến thất người này rồi đến thất người khác làm cho mọi người không ai tu tập được.
Khi thấy những loại MA BA TUẦN này thì quý thầy, quý cô nên đóng cửa thất không tiếp giao, đừng ở gần nên tránh xa, tránh xa những người này như tránh xa vi trùng bệnh truyền nhiễm.
Trong chúng chỉ có một con MA BA TUẦN thì trong chúng đó phải cẩn thận khi thấy bóng dáng con MA đó thì nên đóng cửa thất cho chặt và ngồi thiền nhiếp tâm bất động để vượt qua loài Ma Quỷ.
Những hành động tránh xa loài MA BA TUẦN là nói lên lòng tin của mình đối với Phật pháp không lay chuyển, còn ngược lại những người không có lòng tin hay lòng tin chưa đủ thường mở cửa thất ra tiếp duyên. Đó là những người thích nói chuyện với những loài ma này. Quý vị nên lưu ý.
Vì con đường tu theo Phật giáo không khó nhưng khó là do MA BA TUẦN cám dỗ quý vị để phá hạnh ĐỘC CƯ khiến cho tâm quý vị thường bị phóng dật.
Khi có lòng tin sâu Phật pháp thì quý vị rất siêng năng tu tập không bao giờ biếng trễ. Khi có lòng tin thì mới có cố gắng tu tập. Sự cố gắng nỗ lực tu tập hết mình thì gọi là TẤN LỰC. Khi hằng ngày nỗ lực nhiếp tâm tu tập đúng pháp không hề sai sót một niệm nào cả, luôn luôn duy nhất có một niệm TÂM BẤT ĐỘNG từ giờ này đến giờ khác, từ đó niệm này trở thành một sức lực của niệm nên gọi là NIỆM LỰC. Khi niệm có lực chúng ta chỉ cần niệm là toàn cả thân tâm chúng ta gom lại thành một khối duy nhất không ai làm gì nó bị phân ra được nên gọi là ĐỊNH LỰC. Khi thân tâm gom lại thành một định lực thì trong khối định lực đó có một sự hiểu biết vượt ra khỏi không gian và thời gian. Sự hiểu biết không còn bị lệ thuộc vào không gian và thời gian được gọi là TUỆ LỰC. Đến đây chúng ta đã có đủ năm lực.
NGŨ LỰC này có được là do chúng ta tập NGŨ CĂN, khi ngũ căn thanh tịnh thì NGŨ LỰC xuất hiện đầy đủ. Tuy nói vậy chớ trên đường tu tập NGŨ CĂN khi tu tập một căn nào thanh tịnh thì nơi căn đó xuất hiện đầy đủ NGŨ LỰC. Cho nên NGŨ CĂN và NGŨ LỰC là những pháp đầu tiên tu theo Phật giáo, nếu chưa tu tập NGŨ CĂN, NGŨ LỰC mà tu tập pháp nào cũng mất căn bản vì vậy quý vị nên nhớ.
Có nhiều người bắt đầu tu tập mà không tu tập những pháp căn bản như NGŨ CĂN và NGŨ LỰC lại tu tập thiền định hoặc niệm Phật nhất tâm cầu vãng sinh Cực Lạc Tây Phương hoặc tham thoại đầu, công án hoặc niệm chú hoặc tụng kinh Pháp Hoa. Những điều tu tập như vậy chứng tỏ người tu tập không rõ đường đi lối về của Phật giáo. Do tu tập sai pháp như vậy nên dù có tu tập ngàn đời muôn kiếp cũng chẳng tu tập đến đâu. Một bằng chứng hiện giờ cho chúng ta biết có bao nhiêu tu sĩ cũng như cư sĩ tu tập hết sức nhưng cũng chẳng có một người nào tu làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT, vì đó là tu sai pháp không đúng Phật pháp. Đọc tiểu sử DANH TĂNG VIỆT NAM tập I, tập II có trên mấy trăm vị cao tăng Việt Nam nhìn lại chỉ là những nhà học giả nhất là những vị có lối sống kỳ đặc khác thường khiến cho người đời tưởng là chứng đạo, chớ xét kỹ theo đúng pháp của Phật thì chưa có một vị nào tu tập đến đâu cả. Kinh sách của các Ngài viết chỉ là kiến giải theo kinh nghiệm bản thân của mình không giống chút nào của Phật dạy, nhất là lặp lại ý nghĩa kinh sách của Tổ xưa để lại, chỉ là những lý thuyết suông, không có kinh nghiệm trong tu hành làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Vì thế những kinh sách này toàn là kinh tưởng.
Khi đọc cuốn DANH TĂNG VIỆT NAM chúng tôi rất xấu hổ, là những danh tăng Việt Nam chỉ là kiến thức hữu học thế gian huân tập những kiến thức trong kinh sách Đại Thừa của các học giả Trung Hoa, chớ Kinh sách Phật giáo của Việt Nam chẳng có cuốn sách nào cả. Ngay cả dòng Thiền lớn nhất của Việt Nam TRÚC LÂM YÊN TỬ cũng chịu ảnh hưởng THIỀN TÔNG và TỊNH ĐỘ TÔNG Trung Hoa. Việc khéo léo thiện xảo của vua Trần Nhân Tông biết hợp hai giáo pháp của hai tông phái lớn nhất của Trung Quốc này lại lập thành pháp môn tu hành cho dòng thiền TRÚC LÂM Việt Nam. Có những người không hiểu biết mới hãnh diện cho rằng Việt Nam cũng có dòng thiền không thua vì Trung Quốc, chớ kỳ thật Thiền Tông Việt Nam, THIỀN chẳng ra THIỀN mà TỊNH thì chẳng ra TỊNH.
THIỀN gì mà còn tụng niệm (Tâm kinh bát nhã). TỊNH gì mà còn tham công án, tham thoại đầu, biết vọng liền buông. Có lẽ đây là THIỀN TỊNH song tu, THIỀN TỊNH song tu đó là lời nói che đậy sự tu hành của THIỀN TÔNG VIỆT NAM bị bế tắc.
Đọc hết kinh sách Phật giáo và Thiền Tông Việt Nam chúng tôi chẳng thấy có một cuốn sách nào là của Việt Nam cả toàn là lai căng ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo và Thiền Tông Trung Quốc.
Tại sao một dân tộc Việt Nam có một nền văn hóa riêng biệt không thua vì văn hóa các nước trên thế giới, thế mà bị ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc rất nặng không tự mình vươn lên xây dựng cho mình một nền văn hóa đạo đức Phật giáo mà không chịu ảnh hưởng Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc và bất cứ một nước nào mang Phật giáo đến với đất nước chúng ta.
Đọc lịch sử Phật giáo Việt Nam chúng ta thấy rất rõ Phật giáo truyền vào Việt Nam đi vào ba ngõ:
1-     Ngõ thứ nhất  từ Trung Hoa đến.
2-     Ngõ thứ hai từ Ấn Độ sang.
3-     Ngõ thứ ba từ Lào, Thái Lan và Campuchia sang.
Từ Trung Hoa truyền đến Việt Nam  có hai dòng tư tưởng Phật giáo:
Dòng tư tưởng thứ nhất, đó là Phật giáo Tịnh Độ Tông do ảnh hưởng Nho giáo nên dòng tư tưởng mang tính chất mê tín hoang đường lạc hậu thường hướng dẫn giới bình dân vì giới này dễ tin.
Như chúng ta ai cũng biết Phật giáo Tịnh Độ Tông từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam là dòng tư tưởng mê tín. Đó là một Phật giáo không còn nguyên chất Phật giáo Ấn Độ, nó chịu ảnh hưởng tư tưởng Khổng giáo, Trang Tử Trung Quốc, mà sinh ra một loại Phật giáo mê tín, lạc hậu thường lấy sự cúng bái, tụng niệm làm công phu tu hành của mình. Cho nên khi có bệnh tật hay tai nạn thì tụng kinh cầu an, nếu có người chết làm ma chay thì tụng niệm kinh cầu siêu. Khi tụng niệm kinh cầu siêu thường đánh chuông, khỏ mõ, và trống kèn, đàn nhạc theo giọng tụng kinh niệm Phật ê, a giống như ca hát mà các nhạc sư gọi NHẠC ĐẠO.
Chính vì muốn ru hồn người vào cảnh mộng nên các nhà sư Đại Thừa mới xây dựng một thế giới siêu hình Cực Lạc Tây Phương để linh hồn người chết có chỗ nương tựa. Cho nên lấy sự cúng bái tụng niệm làm đường công phu: Trưa, chiều, tối khuya, chuông, mõ, trống, phách, đẩu nhịp nhàng theo giọng tụng niệm cao thấp ngâm nga giống như hát bộ.
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ TÔNG từ Trung Hoa truyền sang qua Việt Nam gây ảnh hưởng tư tưởng mê tín rất nặng cho cả một dân tộc Việt Nam cho đến ngày nay đã trở thành một nếp sống tư tưởng văn hóa mê tín lạc hậu.
 Cho nên hiện giờ muốn bỏ một truyền thống văn hóa mê tín không phải dễ. Đó là một việc làm hết sức khó khăn. Trong những năm phong trào Việt Minh nổi dậy ra lệnh cấm dẹp những mê tín này nhưng khi phong trào Việt Minh thay đổi thì nạn mê tín lại tràn lan khắp nơi còn nhiều hơn nữa.
Theo chúng tôi nghĩ muốn dẹp trừ tư tưởng Phật giáo mê tín thì không có gì bằng là nên mở những lớp học đạo đức nhân bản - nhân quả  khiến mọi người am hiểu đâu là chánh tín và đâu là mê tín. Nhờ có sự hiểu biết Chánh tín của Phật giáo thì tệ nạn mê tín trong dân gian sẽ dần dần được quyét sạch. Nói về tư tưởng mê tín được truyền thừa lâu đời thì không có một thế lực hay một quyền uy nào mà cấm được, chỉ có ý thức con người biết nó là mê tín thì mới dẹp bỏ được. Dòng tư tưởng mê tín này đã trở thành một nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cho nên hiện giờ muốn dẹp bỏ những mê tín lạc hậu này thì bắt đầu phải biên soạn sách giáo khoa đạo đức nhân bản - nhân quả từ tiểu học, trung học và đại học để giúp các em am tường những mê tín lạc hậu đó từ đất nước Trung Quốc truyền sang.
Dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh hưởng dòng tư tưởng văn hóa của Phật giáo mê tín Trung Quốc truyền sang mà đến giờ này muốn bỏ mà chưa bỏ được, nhìn cảnh đồng bào dân tộc chúng ta đã hao tốn biết bao nhiêu tiền bạc mua vàng mã để rồi đem thiêu đốt, nếu hằng năm trong cả nước tính ra phải tiêu phí có hằng tỷ bạc về vấn đề mê tín lạc hậu này thật là đau lòng.
Dòng tư tưởng thứ hai đó là Phật Thiền Tông chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão giáo nên dòng tư tưởng này mang tính triết lý hướng dẫn giới trí thức nên thường dùng lý luận đề cao triết học TÁNH KHÔNG, nhờ triết học tánh không nên dễ thu hút giới tri thức.
Phật giáo THIỀN TÔNG lấy lý luận dẫn chứng khoa học làm chỗ dựa vững chắc nên dễ lừa gạt giới trí thức một cách dễ dàng, nhất là khi truyền sang qua Nhật Bổn được người Nhật triển khai tận cùng loại tư tưởng Phật giáo này.
Đại diện cho Phật giáo Thiền Tông Nhật Bổn có đại sư SUZUKI, ông đã viết sách thiền làm nổi sóng các nước Đông Nam Á Châu. Từ năm 1970 đến năm 1980 người ta hướng về Thiền Tông như làn sóng ào ạt, nhưng từ năm 1980 đến nay làn sóng thiền Tông mới lần lần xuống cấp. Bởi vì THIỀN TÔNG lý luật rất hay nhưng tu chứng đạo thiền thì không ai tu tập được. Có đạt được cũng chỉ lọt vào trạng thái KHÔNG TƯỞNG.
Qua mọi sự kiện trên chúng ta nên lưu ý pháp môn nào tu tập được và pháp môn nào tu tập không được. Mục đích tu tập của Phật giáo không phải diệt ý thức. Vì ý thức vốn là điều kiện cần thiết cho sự làm chủ thân tâm nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp”. Nếu ý thức bị ức chế như Tịnh Độ Tông, Thiền Tông và Mật Tông thì đó là tu tập sai pháp của Phật giáo. Phật giáo lấy ý thức dẫn tâm vào đạo. Cho nên đạo Phật mới có pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý như lời đức Phật đã dạy trong kinh LẬU HOẶC: “CÓ NHƯ LÝ TÁC Ý LẬU HOẶC CHƯA SINH SẼ KHÔNG SINH MÀ ĐÃ SINH THÌ BỊ DIỆT”. Câu này dạy quá rõ ràng, nhờ đó chúng ta mới biết Phật giáo Thiền Tông và Phật giáo Tịnh Độ Tông Trung Quốc không phải là Phật dạy mà do các tổ Trung Quốc tu hành chưa tới nơi tới chốn rồi kiến giải viết ra kinh sách theo kinh nghiệm tu tập của mình.
Khi văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang thì người Trung Quốc mượn nền văn hóa đó khéo tự chế biến thành một nền văn hóa Phật giáo Trung Quốc làm dồi dào cho văn hóa đất nước mình, thật là tuyệt vời.
- Ngõ thứ hai từ Ấn Độ Phật giáo truyền sang vào miền Bắc đất nước ta, nhưng dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc nên họ không theo, vì thế các nhà sư Ấn Độ trở về nước. Do những điều kiện này mà di tích văn hóa Phật giáo Ấn Độ không có lưu lại đền tháp chùa ở miền Bắc Việt Nam.
- Ngõ thứ ba Phật giáo Nam Tông từ Lào, Thái Lan, Campuchia truyền sang, vì thế mà những tỉnh sát ranh giới Camphuchia, Lào có một số người theo tu tập, nhưng phần đông họ là người Việt lai Campuchia, chớ người Việt chính gốc thì không theo.
Như vậy chúng ta thấy rất rõ dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo Trung Quốc rất sâu nặng, không thể có một tư tưởng Phật giáo nào làm thay đổi tư tưởng họ được.
Như chúng ta ai cũng biết, nếu dựa theo dòng lịch sử Phật giáo truyền sang qua đất nước chúng ta thì Phật giáo không còn là của Phật giáo chính gốc nữa mà là một Phật giáo lai căng. Phật giáo lai căng là một loại Phật giáo tu hành uổng công vô ích vì tu hành chẳng đến đâu cả mà còn làm hao tốn tiền của một cách vô ích...
Phật giáo hiện giờ là Phật giáo Bà La Môn giáo, cho nên không ai tu chứng làm chủ sinh, già, bệnh, chết được, nếu chúng tôi không ra công dựng lại Chánh pháp của Phật, chắc không còn ai biết Phật giáo chân chánh gì nữa.
Cho nên nói NGŨ LỰC mà nhận ra đúng Chánh pháp của Phật thì tu tập lần lược xuất hiện đủ NĂM LỰC, còn nhận ra không đúng Chánh pháp của Phật thì khó có NĂM LỰC được. Tại sao vậy?
Vì lòng tin phải đặt đúng chánh Pháp của Phật thì siêng năng tu tập mới có kết quả tốt đẹp, còn không đúng chánh pháp của Phật thì tu tập không bao giờ có kết quả nên dù có siêng năng cũng chỉ một thời gian mà thôi. Chính siêng năng là nhờ tu tập có kết quả, còn tu tập không kết quả thì không sao siêng năng được. Phải không quý vị?
Khi tu tập siêng năng đúng pháp thì NIỆM LỰC hiện tiền mà niệm lực hiện tiền từ giờ này sang giờ khác thì đó là ĐỊNH LỰC. Khi định lực ngự trị trong tâm chúng ta suốt bảy ngày đêm thì tâm rất thanh tịnh, giống như nước hồ trong xanh, vì thế tất cả mọi sự việc trong quá khứ hay tương lai khi chúng ta muốn biết thì chúng hiện ra rất rõ. Do đó mà danh từ trong kinh Phật gọi đó là TUỆ LỰC.
Tới đây con đường tu tập của chúng ta đã hoàn mãn tâm luôn luôn BẤT ĐỘNG. Do sự bất động này mà người tu hành làm chủ sự sống chết dễ như trở bàn tay.
Tuy Ba Mươi Bảy phẩm Trợ đạo mà không phải tu từng tự theo pháp mà nên chọn pháp nào phù hợp với đặc tướng của mình mà tu tập thì chứng đạo ở pháp đó chớ không phải tu hết cả Ba Mươi Bảy Pháp Môn.
Cho nên khi vào tu tập chúng ta nên chọn pháp phòng hộ sáu căn rồi lấy CHÂN LÝ DIỆT ĐẾ, ôm chặt pháp NGŨ LỰC tu tập đến khi TUỆ LỰC xuất hiện thì chúng ta thành công.
Nếu chúng ta không chọn pháp NGŨ CĂN và NGŨ LỰC tu tập thì chúng ta nên chọn pháp môn TỨ VÔ LƯỢNG TÂM đây là pháp thứ ba của Phật giáo trong 37 pháp tu tập.

Bài pháp thứ nhất: Ngũ Căn

NGŨ CĂN gồm có:
1- Nhãn căn tức là hai con mắt.
2- Nhĩ căn tức là hai lỗ tai.
3- Tỷ căn tức là hai lỗ mũi.
4- Thiệt căn tức là lưỡi miệng.
5- Thân căn tức là cơ thể.
Trên đây là NĂM CĂN trong cơ thể của chúng ta, nó thường phóng dật chạy theo sáu trần tạo ra muôn vàn sự đau khổ cho chúng ta, nên đức Phật dạy phương pháp đầu tiên là lấy NĂM CĂN tu tập. Đối với người mới bước chân vào đạo Phật mà không tu NĂM CĂN là tu tập sai pháp. Người mới vào tu tập mà lo tập ngồi thiền nhập định là không biết pháp tu.
Cho nên bất cứ một người nào mới đến với đạo Phật đều phải nghiên cứu Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo. Ba Mươi Bảy Pháp Môn này còn ghi chép trong kinh sách Nguyên Thủy được lưu giữ cho đến ngày nay.
Tóm lược pháp môn tu NĂM CĂN là pháp môn ĐỘC CƯ, đó là pháp để bảo vệ và hộ trì:
1- Hai con mắt
2- Hai lỗ tai
3- Hai lỗ mũi
4- Miệng
5- Thân
Muốn bảo vệ giữ gìn NĂM CĂN ấy được thanh tịnh thì không nên phóng dật. Muốn tâm không phóng dật thì phải sống MỘT MÌNH. Sống MỘT MÌNH là phương pháp tu tập NĂM CĂN. Nhờ sống MỘT MÌNH nên NĂM CĂN không tiếp xúc với các duyên bên ngoài mà kinh sách Phật giáo gọi là NĂM TRẦN (chỗ này dùng năm căn nên dùng năm trần, còn chỗ nào dùng sáu căn mới dùng sáu trần). Năm trần gồm có:
1- Sắc là tướng mạo hình sắc của vạn vật trong vũ trụ như cây cỏ, đất đá, núi sông, các loài vật lớn hay nhỏ và con người.
2- Thinh là âm thanh, tiếng nói, tiếng kêu, tiếng khóc, tiếng rên, tiếng la hay tiếng hét v.v...
3- Hương là mùi thơm mùi thối, mùi thơm nồng nực hay mùi thối khó chịu.
4- Vị là có mùi vị ngọt, bùi, cay, đắng, mặn, lạt.
5- Xúc là va chạm, sờ mó, rờ rẫm, xoa bóp.
Khi muốn sống MỘT MÌNH cho được trọn vẹn thì phải dùng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý thường xuyên tác ý lôi các căn vào trong thân như sau:
1- Mắt phải nhìn vào trong thân.
2- Tai phải nghe vào trong thân.
3- Mũi phải ngửi mùi trong thân.
4- Lưỡi phải nếm vị cay, đắng, ngọt, bùi, mặn, lạt trong thân (miệng).
5- Thân phải cảm giác nóng, lạnh, mát mẻ, đau nhức trong thân.
Và cuối cùng tác ý: năm căn không được nhìn, nghe, ngửi, nếm, cảm giác năm trần bên ngoài mà hãy quay vào nhìn, nghe, ngửi, nếm, cảm giác trong thân.
Đó là cách thức tu tập để giữ gìn hạnh ĐỘC CƯ sống không bị phóng tâm, phóng dật.
Nếu người nào vào tu viện mà không giữ hạnh ĐỘC CƯ trọn vẹn thì nên xin về để ở trong gia đình tu tập lại. Khi nào sống ĐỘC CƯ được thì hãy xin vào tu viện tu tập, còn chưa sống được độc cư thì nên ở trong gia đình tu pháp xả tâm ly dục ly bất thiện pháp.
ĐỘC CƯ là pháp phòng hộ năm căn như chúng tôi đã nói ở trên, pháp môn ĐỘC CƯ này rất quan trọng. Nhận xét người tu sĩ nào giữ gìn hạnh ĐỘC CƯ trọn vẹn là người tu sĩ tu tập có kết quả tốt, còn những vị nào phá hạnh ĐỘC CƯ thì biết ngay họ không tu tập được nên cho họ về sống đời đạo đức nhân bản - nhân quả trong gia đình còn có lợi ích cho mình cho người hơn.
Bắt đầu vào tu pháp môn NGŨ CĂN là phải sống ĐỘC CƯ nên biết ngay người tu được hay không tu được. Vì có sống ĐỘC CƯ là tu tập được, còn không sống ĐỘC CƯ là tu tập không được. Ở tu viện phần đông tu sĩ và cư sĩ đều rớt ở giai đoạn đầu tu tập phòng hộ NĂM CĂN này.

Bảng tóm lược sơ đồ ba mươi bảy phẩm trợ đạo

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo gồm có theo thứ tự tu tập từ các pháp thấp đến các pháp cao như sau:
- NGŨ CĂN gồm có:
1-     Nhãn căn
2-     Nhĩ căn
3-     Tỷ căn
4-     Thiệt căn
5-     Thân căn
- NGŨ LỰC gồm có:
1-     Tín lực
2-     Tấn lực
3-     Niệm Lực
4-     Định lực
5-     Tuệ lực
- TỨ VÔ LƯỢNG TÂM gồm có:
1-     Từ Vô Lượng Tâm
2-     Bi Vô Lượng Tâm
3-     Hỷ Vô Lượng Tâm
4-     Xả Vô Lượng Tâm
- TỨ BẤT HOẠI TỊNH gồm có:
1-     Niệm Phật
2-     Niệm Pháp
3-     Niệm Tăng
4-     Niệm Giới
- TỨ CHÁNH CẦN gồm có:
1-     Ngăn ác
2-     Diệt ác pháp
3-     Sinh thiện
4-     Tăng trưởng thiện pháp
- TỨ NIỆM XỨ gồm có:
1-     Quán thân
2-     Quán thọ
3-     Quán tâm
4-     Quán pháp
- THẤT GIÁC CHI gồm có:
1- Niệm Giác Chi
2- Tinh Tấn Giác Chi
3- Khinh An Giác Chi
4- Hỷ Giác Chi
5- Định Giác Chi
6- Xả Giác Chi
7- Trạch Pháp Giác Chi
- TỨ NHƯ Ý TÚC gồm có:
1- Dục Như Ý Túc
2- Tinh Tấn Như Ý Túc
3- Định Như Ý Túc.
4- Tuệ Như Ý Túc
Bảng tóm lược trên đây đầy đủ Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo.