Thứ Ba, 19 tháng 11, 2024

Pháp Tu Cư Sĩ - Tứ Vô Lượng Tâm - XẢ TÂM NGỦ

 5.- XẢ TÂM NGỦ

Bây giờ chúng ta tiếp tục xả cái ngủ, xả cái ngủ là xả cái cuối cùng. Năm thứ dục lạc thì cái ngủ là cái cuối cùng. 

Ngủ là một thứ dục lạc trong năm thứ dục lạc khiến cho con người thích thú ham mê ngủ. Ngủ là một trạng thái ngu si mê muội, ngủ là một trạng thái bần thần dã dợt, lười biếng. Cho nên những người lười biếng là những người ham ngủ. 

Ngủ có nhiều cấp độ. Ở đây quý thầy thấy trong trạng thái ngủ làm cho con người si mê lắm. Do đó mà đức Phật gọi là thùy miên hay vô ký. Đó là danh từ để chỉ cho người lười biếng, người hay ngủ, người ngu si, người không có thông minh. Cho nên gọi là hôn trầm thùy miên. Phải biết ngủ có nhiều cấp độ, không phải nó có một cái hôn trầm thùy miên không thì nó chưa đủ. Vì vậy Thầy muốn chỉ cho quý thầy thấy năm trạng thái đi vào trong cái gọi là ngu si. 

Đó là:

- Thứ nhất là hôn trầm,
- Thứ hai là thùy miên,
- Thứ ba là hôn tịch,
- Thứ tư là vô ký,
- Thứ năm là ngoan không.

Năm trạng thái này là năm trạng thái mà người tu thiền thường gặp. Người tu thiền mà ngồi lâu thì lúc nào cũng dễ bị rơi vào một trong năm trạng thái này. 

Hôn trầm thì như thế nào? Hôn trầm là người ngồi một lúc thì lại vô ký đi, quên mất đi rồi gục xuống một cái, rồi mới ngước đầu lên. Trạng thái gục xuống như vậy đó gọi là hôn trầm.

Thùy miên là như thế nào? Thùy miên là người đó ngồi cúi cái đầu xuống hoặc quẹo cái cổ qua một bên, rồi bị ngủ quên mất đi, ngủ say ở trong giấc ngủ. Đó là thùy miên. Thùy là ngủ, miên là tiếp tục miên man, miên mật ở trong đó, ở trong giấc ngủ quên đi, ở trong cái không biết đó thì gọi là thùy miên. 

Thứ ba là hôn tịch. Hôn tịch là một lúc thì mê, một lúc thì tỉnh tỉnh, mơ mơ màng màng đó. Những người ngủ mà không say mà cũng không gục đó, lúc thì tỉnh lúc thì mê. Cũng như quý thầy tu về hơi thở. Lúc thì biết hơi thở, lúc thì không biết hơi thở. Đó gọi là trạng thái hôn tịch. Nó cũng thuộc cái loại ngủ đó. Khi vừa ngủ vừa mê vừa tỉnh thì cái đó gọi là hôn tịch.

Còn thứ tư thì thuộc loại vô ký. Vô ký là chợt quên đi. Thứ nhất là nó quên cái tâm cho nên lúc bây giờ vừa chợt quên thì nó mất cái tỉnh. Nó mất cái tỉnh thì niệm vọng tưởng xen vô liền. Cái đó gọi là vô ký. Quên rồi nó mới có niệm khác xen vô. Hoặc là nó quên, nếu cái thân nó quên đi thì khi có tiếng động hoặc cái gì đó làm nó giựt mình, hoặc là nó vừa quên vừa giựt mình. Thì đó, cái thân cũng vô ký. 

Khi vô ký kéo dài thì vô ký trở thành trạng thái gọi là ngoan không. Nó mới chợt vừa quên thì đó là vô ký. Mà nó kéo dài một thời gian dài từ nửa tiếng hai, ba tiếng mà không ngơ, nó không giống như ngủ, không giống như thùy miên mà nó không ngơở trong đó thì đó gọi là ngoan không. 

Cho nên năm cái loại ngủ này gọi là ngu si. Người nào rơi vào trong trạng thái đó thì không còn thông minh nữa, mà càng ngày càng đi tới ngu si. Nghĩa là người ngồi thiền nhập định mà vào cái ngoan không này thì lâu ngày họ phát ra cái trí tuệ của tưởng. Họ tưởng giải. Họ tưởng là đúng nhưng sự thật họ nêu những cái kiến giải, tưởng giải đó ra làm cho lầm lạc tất cả những lối đi, làm cho phá giới luật, làm cho những khuôn phép của Phật mất đi để cho họ được tự tại ở trong cuộc sống, chạy theo ngũ dục lạc. Cho nên người rơi vào ngoan không này thường hay phát triển pháp tưởng. Vì thế mà người sau này dễ bị lầm lạc, nghĩ cái pháp đó là đúng, cho nên từ đó làm lệch con đường tu theo đạo Phật. Làm tất cả những người tu sau này mất lối, không còn biết đường đi nữa. Đó là những cái mà người tu thiền sai bị rơi vào ngoan không tạo thành những pháp tưởng. Vì vậy mà đời mất lối đi, mất đường tu giải thoát. Cho nên từ chỗ ngu si này nó đưa đi đến cái chỗ ngu si khác mà tưởng rằng mình đã có trí tuệ. Đó là cái sai rất lớn trong sự tu tập theo đạo giải thoát. Tất cả những loại ngủ này gọi chung là si thiền hay mê định. 

Nói chung những loại si này, người mới vô tu không biết. Cho nên đức Phật dạy chúng ta vào bắt đầu tu thì tu Chánh niệm tỉnh thức làm cho cái sức tỉnh của chúng ta mạnh. Cho nên đi kinh hành nhiều đểtỉnh thức trên hành động, tu trên thân quán ngoại thân, trên cái hành tướng của nó để tu tập, để làm cho có sức tỉnh. Vì vậy mà nó không rơi vào hôn trầm thùy miên, hôn tịch, vô ký, ngoan không. Còn nếu chúng ta không tu tập Chánh niệm tỉnh thức này mà vội vào khép chân ngồi kiết già, rồi đặt hơi thở, hoặc đề mục nào đó rồi chúng ta ngồi, mà ngồi quá lâu thì cơ thể bị mệt mỏi, do đó nó thiếp dần đi ở trong những trạng thái ngủ. Trạng thái si mê này tạo ra những cảnh giới, tạo ra những trí tuệ không đúng cách, làm cho lệch lạc sự tư duy, mất trí tuệ. Bởi vì nó ngu si, đó là si định nên nó làm cho chúng ta ngu si mà cứ ngỡ tưởng mình là trí tuệ. Từ đó mình dẫn mình đi trên con đường tu hành lạc nẻo mà không hay biết. Cho nên tất cả cái ngủ này đều gọi chung là si thiền, mê định. Kẻ tu tà thiền, định tưởng thường rơi vào trạng thái này. Nghĩa là người tu thiền thuộc tà thiền, định tưởng thì họ thường rơi vào trạng thái của 5 loại ngủ này, không thể nào khác được. Quý thầy cứ nghiệm qua sự tu tập của quý thầy từ lâu đến giờ mà quý thầy không được hướng dẫn tu ở trong Chánh niệm tỉnh thức kỹ lưỡng, bây giờ quý thầy ngồi lâu thì cũng rơi vào trong năm cái loại ngủ ngu si này, trong năm cái thứ mê muội này, chứ không thoát khỏi nanh vuốt của năm loại ngu si này. 

Có dịp nói về thiền Thầy sẽ giảng tất cả những loại si thiền này để cho quý thầy rõ hơn. Bây giờ Thầy dạy cách xả tâm vô lượng ngủ. Bởi vậy cho nên năm cái loại ngủ này nó biến ra vô lượng cái ngu si tức là vô lượng cái ngủ của chúng ta, si mê của chúng ta. Bây giờ Thầy sẽ dạy quý thầy áp dụng hành pháp nào để đạt cho được xả vô lượng tâm ngủ này cho chúng ta được tỉnh táo, được sáng suốt, được thông minh để có trí tuệ dẫn lối cho chúng ta đi đến con đường giải thoát chân chánh. 

Khi một người tu hành đã bị năm thứ si thiền này thì phải vận dụng hết sức để phá nó. Gặp nó rồi thì phải hết sức vận dụng phá nó chứ không được theo nó. Hễ nghe mỏi mệt là đi ngủ thì không được. Hoặc là ngồi thiền mà nghe an lạc rồi thiếp dần ở trong đó, rơi vô trạng thái ngoan không cũng không phải tốt lắm đâu. Phải phá nó đi cho được, phải tìm mọi cách không được cho nó nhập vào tâm, vào thân của chúng ta. 

Vì thế người cư sĩ mới trau dồi tâm mình thì ngay đây phải trau dồi tâm xả vô lượng ngủ. Vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau. Bây giờ Thầy kể ra một số trạng thái ngủ để cho quý thầy biết. Chứ nếu quý thầy cứ nói năm cái loại này rồi không biết nó xảy ra như thế nào để chúng ta thấy được năm cái trạng thái ngủ. Bởi vì ở đây Thầy nói nó có vô lượng cái ngủ chứ không có phải có một cái ngủ, vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau.

- Khi đi xe, tàu, ghe đi biển bị sóng như say say ngủ. Ai đã từng đi tàu, đi xe, đi ghe đi biển rồi thì biết, nó gật gà gật gù, nó làm chúng ta mệt nhọc cơ thể, đó là bị say sóng, say gió. Do đó nó làm chúng ta ngây ngây như ngủ mà không ngủ. Đó là những trạng thái làm cho chúng ta mê mà không tỉnh. 

- Bị cảm gió, thân lừ đừ nóng lạnh.Khi chúng ta bị cảm gió hoặc bị cảm mưa thì thân của chúng ta nóng lạnh, nó cũng làm chúng ta buồn ngủ. Tất cả những bệnh khác đều có trạng thái không tỉnh táo. Nghĩa là mọi bệnh tật nhiều khi nó làm cho cơ thể chúng ta uể oải khó chịu, do đó chúng ta lừ đừ. Đó là những trạng thái ngủ, trạng thái cơ thể lờ đờ. 

- Tu sai cũng buồn ngủ. Nghĩa là chúng ta tu sai, tu không đúng, nó cũng buồn ngủ nữa. Như trong pháp sổ tức thì sổ tức đến một mức nào đó thôi,nếu sổ tức quá mức của nó thì cũng sanh ra buồn ngủ nữa, chứ không phải quý vị sổ tức là nó tỉnh đâu. Sổ tức mà quá sức chịu đựng của tâm trí thì sinh ra buồn ngủ. Ví dụ sức của chúng ta sổ tức đến một ngàn hơi thở, mà chúng ta tăng lên chừng một ngàn rưỡi, hay hai ngàn hơi thở thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ bị buồn ngủ. Chúng ta không biết cái buồn ngủ này ở đâu mà ra. Buồn ngủ đó là vì chúng ta đếm quá sức, sự tập trung ở trong số đếm hơi thở từ một ngàn, tăng thành hai ngàn hơi thở như vậy quá sức thì nó làm cho quý vị bị buồn ngủ. Rồi từ cái buồn ngủ đó quý vị không còn nhớ đếm hơi thở nữa.

- Trụ tâm không đúng chỗ cũng sinh buồn ngủ. Phải trụ tâm đúng chỗ của nó thì mới tỉnh, còn không đúng chỗ của nó thì sẽ sanh ra buồn ngủ. 

- Làm quá sức cũng buồn ngủ. 

- Sống cô đơn một mình cũng buồn ngủ. 

- Lười biếng cũng buồn ngủ. 

- Rượu chè, bài bạc, trác táng cũng buồn ngủ. 

- Trai gái dục lạc quá độ cũng làm buồn ngủ, v.v... 

Đó là những cái có thể đưa chúng ta đến vô lượng buồn ngủ, vô lượng ngủ.

Vậy muốn xả tâm vô lượng ngủ này phải làm sao? Thì chúng ta phải hiểu được những trạng thái ngủ đó là thuộc trạng thái ngủ nào để chúng ta đối trị cho nó hết. Như bây giờ mình bị bệnh sinh ra ngủ thì mình phải tìm thuốc thang uống cho hết bệnh. Nếu bị bệnh mà mình lại đi kinh hành thì làm sao mà đi hết ngủ nổi. Đi riết một hơi chắc là vô nằm rồi ngủ luôn chớ không bao giờ tỉnh lại được nữa. Đó là do trị ngủ sai, trị ngủ phải trị cho đúng cách, không có thể trị cái ngủ này bằng phương pháp khác mà phải tùy theo trường hợp ngủđể trị thì nó mới hết. Phải tùy theo những trạng thái cơ thể, nếu bệnh tật thì trị bằng thuốc thang, mệt nhọc thì nghỉ ngơi, mệt nhọc thì không được làm việc quá sức lực của cơ thể cũng như tinh thần, do trác táng thì dứt bỏ những trò chơi trác táng,... 

Ở đây Thầy dạy rất rõ ràng và cụ thể. Phải xét nguyên nhân cái buồn ngủ là do mệt nhọc trong cơ thể chúng ta ở chỗ nào để rồi tùy nguyên nhân đó mà trị bệnh buồn ngủ này thì nó sẽ tỉnh táo và sáng suốt. Chứ nếu cứ làm quá sức hoài, vừa mệt nhọc tinh thần, vừa mệt nhọc cơ thể của mình, thì người đó cứ lừ đừ buồn ngủ hoài, làm sao mà họ thông minh được. Họ thông minh nhưng vì làm quá sức thì làm sao họ còn thông minh nữa. Đầu óc tối ngày cứ suy tư hoài, làm sao mà thông minh, ít ra họ cũng phải nghỉ ngơi. Như vậy, muốn có thông minh thì đừng có làm quá sức. Đó là những cái để đối trị lại buồn ngủ, mất thông minh, để làm cho chúng ta càng ngày càng có trí tuệ, có ý thức rất là thông minh, chính xác trong công việc làm, trong sự tu tập.

Ở đây người muốn xả tâm vô lượng ngủ này phải hết sức thận trọng trong việc trau dồi tâm này. Nghĩa là phải hết sức thận trọng, phải rõ ràng từng nguyên nhân của sự buồn ngủ để trau dồi tâm của chúng ta, chứ không phải muốn trau dồi xả tâm vô lượng ngủ mà đặt nó ở chỗ sai thì không thể được. Như vậy:

1. Phải biết buồn ngủ trong thân mình là loại nào. Đó, thứ nhất mình phải xét ở trong thân mình, nguyên nhân của buồn ngủ thuộc loại nào.

2. Tùy theo bệnh trạng buồn ngủ mà dùng thuốc thang, cách thức trị bệnh.

3. Cương quyết, mạnh mẽ dứt bỏ những trò chơi không lành mạnh. Như uống rượu, hoặc bài bạc thức thâu đêm, ca hát thâu đêm. Những cái đó phải kiên quyết dứt bỏ. Suốt một đêm chơi vui, sáng ra ngủ gà ngủ gật suốt ngày, không tỉnh táo, thì người đó là người rất mê si. 

4. Phải rèn luyện nghị lực, chiến thắng những trạng thái lười biếng. Nghĩa là lúc nào cũng phải tìm cách rèn luyện nghị lực của mình chiến thắng lại những trạng thái lười biếng, vì trong trạng thái lười biếng cũng sanh ra buồn ngủ. 

5. Lấy nước súc miệng, rửa mặt, hoặc tắm cho lạnh. Khi biết trạng thái lười biếng của mình thì làm cho nó lạnh, làm cho nó sợ thì nó mới hết. Cái thứ lười biếng thì lấy roi mà quất cho đau, lấy cây mà đập cho nó khổ, lấy dao mà rạch rồi lấy muối xát vô vết thương thì hết buồn ngủ. Đó là những trạng thái lười biếng mà làm như vậy thì nó sẽ hết. 

6. Ngồi chỗ nguy hiểm cho tâm sợ hãi. Nghĩa là mình ngồi trên ngã ba nhánh cây hoặc ngồi trên tảng đá cheo leo, làm cho nó tỉnh táo, nó không dám ngủ, nó sợ chết nên luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác. Khi mình ở trên núi mà thấy buồn ngủ thì trèo lên cục đá nào cheo leo rồi ngồi trên đó. Nếu mày ngủ thì cho mày rớt xuống chết cho rồi. Vì vậy nó sẽ tỉnh táo, không dám ngủ. Phải tìm mọi cách để phá cái ngủ chớ nếu không thì chúng ta sẽ tìm cách chui trong thất hoặc là chui trong giường mà ngủ cho khỏe thân. 

7. Đọc kinh sách. Nếu mình thấy buồn ngủ thì lấy kinh sách ra đọc rồi suy tìm nghĩa lý trong đó, thì một hồi là nó tỉnh táo.

8. Ngồi quán xét, tìm xem cái ngủ ở đâu. Ở đây Thầy nêu ra cách thức để quý thầy thấy biết được cách mà phá ngủ. Quán xét xem cái ngủ từ đâu đến, từ đâu nó làm cho tay chân, thân thể bần thần lười biếng như thế này. Đó là các thầy dùng sức quán xét, đặt niệm ngủ trước mặt rồi ngồi đó mà quán xét cái ngủ, một lúc thì cái ngủ nó mất. 

9. Xem sao trên trời, tìm hiểu lý do diễn biến của vũ trụ. Đây là cách thức cho người thích thiên văn, cho tâm thích thiên văn, thì lúc buồn ngủ người đó đi ra nhìn trời, nhìn sao, tìm hiểu sự diễn biến trong vũ trụ, thấy sao này xẹt qua, sao kia lặn mất. Điều đó làm cho người này thích thú mà quên ngủ. 

10. Đem sách truyện hình ra xem. Người thích xem hình ảnh đánh nhau hoặc thế này thế khác thì khi buồn ngủ, đem sách truyện hình ra xem một hồi thì hết buồn ngủ. 

11. Đi kinh hành tu tập tỉnh thức. Cách thứ 11 này là cáchphá ngủ của người tu sĩ chúng ta đó. Chúng ta phải tập tỉnh thức, phải đi kinh hành cho nhiều, đừng lười biếng thì nó sẽ tỉnh thức được. Và biết cách áp dụng pháp hướng để nhắc tâm thì chúng ta sẽ tỉnh thức mà phá cái buồn ngủ.

12. Tu vô lậu, quán xét thân tâm, suy tìm sự vô thường, khổ, vô ngã và nguyên nhân của bệnh tật ở trong thân của chúng ta. Chúng ta dùng Định Vô Lậu, dùng Định Chánh niệm tỉnh thức, chúng ta cũng có thể phá được cái buồn ngủ.

13. Đi kinh hành trau dồi lòng từ tâm của mình dưới bước chân đi, tránh giẫm đạp chúng sanh. Khi ban ngày cũng như khi ban đêm thì chúng ta lại hướng tâm để nhắc chúng ta tránh dẫm đạp chúng sanh. Còn một câu ám thị mà Thầy chưa nhắc là khi đi ban đêm con mắt chúng ta không nhìn thấy chúng sanh ở dưới chân, thì chúng ta không thể nào làm sao tránh dẫm đạp lên chúng sanh được, vì vậy chúng ta phải tác ý nhắc, bởi vì Phật đã nói "đạo giao cảm ứng nan tư nghì". Tâm chúng ta có lòng thương thì cảm ứng được với chúng sanh cho nên chúng ta phải dùng câu hướng như thế này:

"Ban đêm tôi đi kinh hành, không thấy chúng sanh. Xin tất cả chúng sanh trên đường tôi đi kinh hành hãy tránh cho tôi đi".

Mình phải hướng câu tác ý đó để giao cảm với chúng sanh, nên khi bước chân mình vừa đến là tất cả chúng sanh đã rời khỏi. Đó là vừa phá buồn ngủ mà cũng vừa trau dồi tâm từ của chúng ta dưới bàn chân trong lúc đêm khuya thanh vắng, trong lúc đêm tối mờ không thấy mặt đường. 

14. Dùng pháp hướng như lý tác ý:

"Cái ngủ này vốn không có trong thân tứ đại này, chỉ do ngu si, mê muội, lười biếng, thiếu tinh tấn nên mới thọ sanh. Thọ vốn vô thường, lúc có lúc không. Vậy thọ uẩn phải dừng trạng thái ngủ nghỉ mê muội này, không được tái diễn, phải chấm dứt ngay"

Đó là câu pháp hướng cuối cùng để chúng ta phá cái thọ mê ngủ này, phá cái thọ ngu si này. Thường khi chúng ta đặt niệm đó như vậy là phải ngồi kiết già lưng thẳng hẳn hòi, phải dùng câu này để hướng tâm ám thị một cách chắc chắn, đánh đuổi cái thọ ngu si này ra. Chỗ chữ "phải chấm dứt" phải nói mạnh như truyền lệnh, càng mạnh càng tốt, làm cho tất cả sức tinh thần của chúng ta dồn tại đó mà đuổi những cơn lừ đừ say say của cơ thể. Nói như truyền lệnh là dùng tâm lực của tinh thần mạnh bạo làm cho cơn ngủ mau lui bước. 

Quý thầy thấy Thầy chỉ dạy cho quý thầy những pháp rất cụ thể. Nếu quý thầy gằn dọng nhiều lần ở chỗ "phải chấm dứt" cho nó mạnh bạo. Trừ cơn buồn ngủ ở trong thân của quý vị thì phải dùng lực mà đẩy ra. Tác ý như vậy chừng hai ba câu tác ý là quý thầy đã tỉnh táo, không còn buồn ngủ nữa. 

Hôm nay Thầy dạy cho quý thầy xả tâm vô lượng ngủ để cho biết cách xả cho tận gốc của nó. Khi đối với bệnh buồn ngủ phải thông minh sáng suốt, quý thầy phải sáng suốt thông minh chớ không thể thiếu sự thông minh mà đối trị nó được, nếu không thông minh sáng suốt thì buồn ngủ lại buồn ngủ nhiều hơn. Nghĩa là mình trị nó mà mình lại buồn ngủ hơn. Còn nếu thông minh sáng suốt, mình trị đúng bệnh của nó thì nó mau hết. Nếu không thông minh sáng suốt thì vất vả hơn nhiều.

Cho nên quý thầy tu theo đạo Phật thì thứ nhất là siêng năng, bền chí đi kinh hành nhiều.Quý thầy theo đạo Phật thì phải thực hành như Phật, đi kinh hành là cách thức như Phật ngày xưa, đức Phật luôn luôn đi kinh hành ở trong khu rừng của ông ta. Và chúng ta nên bắt chước gương hạnh của Phật mà luôn luôn nên đi kinh hành như vậy để phá đi những cái mê muội này làm cho tỉnh thức luôn luôn. 

Luôn luôn phải trau dồi tâm phá ngủ dưới chân mình bằng pháp hướng tâm như lý tác ý: 

"Buồn ngủ phải lui đi! Lười biếng phải lui đi!".

Đó là những câu ám thị ngắn mà chúng ta vừa đi vừa nhắc nó khi biết tâm mình đang buồn ngủ, đang lừ đừ, đang không tỉnh táo, rồi tiếp tục chúng ta lại hướng tâm nữa: 

"Cơn mơ mơ, say say, hãy lui đi! Thân tâm phải tỉnh táo".

Chúng ta nhắc nhiều lần như vậy trong khi đi, nhắc như ra lệnh một lúc thì hết hôn trầm, thùy miên.

Quý thầy thấy mình có pháp để phá; nhưng từ lâu tới giờ chưa có ai triển khai ra được cho nên mình không biết mà phá. Vì vậy mà cứ buồn ngủ thì phải chịu buồn ngủ thôi, không bao giờ hết được. Hôm nay với giáo án này, Thầy dạy hết tất cả những kinh nghiệm của Thầy để quý thầy tự mình lấy pháp làm chỗ nương tựa vững chắc mà trau dồi thân tâm của mình, để làm chủ sanh tử. 

Đến đây quý vị đã hiểu ngũ dục lạc có sức cám dỗ và lôi cuốn rất mạnh, không có một sức nào cưỡng lại được nếu không phải là pháp môn Giới Định Tuệ của đức Phật. Toàn cả tu sĩ trên thế gian này đều bị ma ăn, ma danh, ma sắc dục, ma lợi, ma ngủ lôi xuống địa ngục tất cả. 

Có những tu sĩ khổ hạnh trong ăn uống thế mà bị ma dục lạc danh lôi cuốn. Nghĩa là vị tu sĩ sống khổ hạnh trong ăn uống, không để cho ăn uống cám dỗ nhưng ma danh vẫn cám dỗ họ, do vậy họ thường diễn những trò kỳ đặc từ hình ảnh này đến hình ảnh kia cho quần chúng xem để ca ngợi khen tặng họ. Đó là họ sống theo danh. Họ thắng được cái dục lạc này thì bị cái dục lạc khác lôi cuốn. Thật là buồn cười, tu dở chết dở sống thế mà đem ra mua một cái danh hão của thiên hạ. 

Nếu ai đã từng theo Thầy tu hành thì biết tu không phải dễ thế mà tu được lại đem ra mua danh như vậy thì quý vị nghĩ sao? Vị tu sĩ có thoát khỏi ngũ dục lạc không, mà không thoát khỏi ngũ dục lạc thì có giải thoát không? Người nhập định toàn cả cơ thể không còn hoạt động, gần giống như cái thây ma người chết, mà mời các nhà khoa học đến đem máy đo điện tâm đồ họ sẽ kinh ngạc đến bậc nào. Từ đó báo chí đăng khắp thế giới như vậy không phải là người đại ngũ dục lạc thế gian sao, như vậy có phải là giải thoát hay không? 

Người tu hành giải thoát là phải xa lìa năm thứ dục lạc, sống đời sống thiểu dục tri túc, không nhà không cửa, sống vô gia đình, không có của cải tài sản nhỏ, tài sản lớn. Nhìn đời sống như vậy chúng ta biết đó là những bậc chơn tu, giới đức, thiền đức, những bậc đã giải thoát ra khỏi vòng thế tục. Còn những tu sĩ biểu diễn những trò kỳ đặc để mua danh, mua lợi thì có gì giải thoát đâu. Họ chỉ làm trò giải trí cho thiên hạ xem chơi. 

Đây là những câu hướng tâm để dẫn tâm vào đạo giải thoát các ác pháp. Nhưng trước hết quý vị phải hiểu, phải biết, trước khi dùng pháp này tu hành dứt bỏ các ác pháp, quý vị phải “tâm chuyên nhất cảnh”, nghĩa là như thế nào? Không được đụng đâu ngồi đó mà dùng pháp hướng, pháp tùy… Muốn tu một pháp nào thì phải tìm nơi ngồi cho nghiêm chỉnh, bởi vì pháp không phải tu tập bất kỳ chỗ nào mà có thể giúp mình ra khỏi ác pháp, cứu mình ra khỏi đau khổ của cuộc đời, cho nên phải xem pháp là vật quý báu, phải nghiêm chỉnh trước khi dùng một câu hướng, trước khi dùng một sự quán xét nào mới có kết quả.

Người tu trước khi khởi động cái gì phải chủ động điều khiển: ngồi xếp bằng, lưng thẳng, ngồi thật yên tịnh, hít 10 hơi thở bình thường cho tâm gom vào trong hơi thở và tâm chuyên nhiếp vào, bám chặt vào hơi thở, đặt niệm hướng tâm này ngay trước mặt mà dẫn tâm dứt trừ các ác pháp. Trong khi tu tập không nên để mất niệm tức là thất niệm, nghĩa là lúc nào cũng nhớ niệm đặt trước mặt, không được quên, không được khi thì nhớ việc này việc nọ mà xao lãng niệm đang đặt trước mặt. Cho nên Phật dạy thất niệm thì không đạt được kết quả gì hết. Thất niệm thì tâm mê hay tâm động thì sự tu không kết quả. Khi đặt niệm trước mặt thì phải tập trung tâm trong niệm đó, để quán xét về niệm đó, suy tư về niệm đó, tìm ra gốc niệm đó ta mới thấy suốt nó. Có tu nghiêm chỉnh như vậy mới quét sạch lậu hoặc, chứ không nghiêm chỉnh thì tu ngàn đời không đạt kết quả gì ráo. Khi niệm đó dứt rồi thì tiếp niệm khác, sau khi có một khoảng cách giữa hai niệm, nghĩa là sau khi quán xét xong thì xả niệm đó ra, rồi mới đặt niệm khác tiếp theo, chứ không được không xả niệm vừa quán xét xong. Câu hướng tâm cũng vậy, hướng tâm câu trước cho niệm trước xong rồi thì phải nghỉ xả ra, rồi mới đặt câu hướng tâm khác cho niệm kết tiếp. 

Để trau dồi tâm, hay hành vi, hay dứt bỏ gì thì phải có khoảng cách giữa các câu tác ý hướng tâm. Tâm phải yên lặng theo 10 hơi thở bình thường. Cũng giống như người huấn luyện voi, bò trâu… sau khi huấn luyện chúng thuần thục xong một pháp nào thì phải để cho chúng yên tịnh một thời gian, sau đó mới huấn luyện qua pháp khác. Đức Phật dạy rất kỹ chỗ này: Khi tu định Vô lậu cũng như định Chánh niệm Tỉnh thức hay các thứ định khác, để tâm gom lại thì phải trở về hơi thở cho nên Phật nói: định niệm hơi thở ra hơi thở vô khéo tác ý. Câu này ý thế nào? Quý vi đang đi kinh hành mà muốn cho tâm gom vào trong bước đi thì hơi thở là đối tượng trước mặt nên tập trung tâm vào đó rất dễ, nên có câu hướng tâm “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” để tâm tập trung trong hơi thở, sau đó tác ý “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” thì tâm rời khỏi hơi thở để tập trung vào chân bước tức khắc. Sau khi đi một lát, đứng lại tác ý “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” như vậy tâm tập trung vào hơi thở - vì hơi thở nằm trong thân, xả hơi thở ra, tác ý đi kinh hành thì tâm cũng vẫn ở trong thân, như vậy thì tu rất kết quả, tâm luôn luôn tập trung vào hơi thở rồi quan sát thân hành, chứ không phải tâm luôn luôn nằm dưới chân của quý vị, mà luôn luôn nằm dưới chân thì bị thất niệm cho nên sự tỉnh giác chỉ là mơ hồ không phải thực sự là tỉnh giác, tâm có tụ điểm hơi thở để quan sát tất cả các hành động của thân, sức tỉnh giác ngày càng rõ ra, chứ không trở về hơi thở thì dễ bị thất niệm, không tỉnh giác. Cho nên khi nhập định, lúc nào tâm cũng bám sát hơi thở cho dù nhập tới định nào vì hơi thở là tụ điểm.

Trong thời gian khoảng cách giữa hai hơi thở phải giữ không cho có tạp niệm nào xen vào, biết rõ từng hơi thở ra hơi thở vào; sau khi theo dõi 10 hơi thở bình thường thì tác ý câu trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm để trau dồi lòng thương yêu.

***

Để chấm dứt bài Tứ Vô Lượng Tâm thầy xin đọc lại một bài kệ của đức Phật. Trong 10 pháp ác, bây giờ mình đã tới cái si của tham sân si, là mình đã chấm dứt 10 pháp ác rồi, cho nên chúng ta đọc lại một bài kệ của đức Phật để chúng ta tóm lại ý của nó. Đây bài kệ của đức Phật:

Ai phản lại chánh pháp
Tham sân si nuôi lớn
Thanh danh bị sứt mẻ
Như trăng khuyết đêm đen

***

Ai không phản chánh pháp
Tham sân si đoạn dứt
Thanh danh được tròn đủ
Như trăng tròn mười sáu

Bây giờ mình hiểu được cái chánh cái tà rồi, cái ác cái thiện rồi, nếu mình còn phản lại thì là một tội rất lớn. Nghĩa là biết rồi mình còn phạm phải thì coi như con người của mình bị sứt mẻ, không còn đầy đủ. Trăng khuyết mà còn đêm đen nữa thì các thầy biết rằng trăng nó khuyết, nó nhỏ xíu, thì ánh sáng đâu có, mà đêm đen nữa thì nó mờ tối vô cùng. Người phản lại chánh pháp, phản lại các pháp thiện, thì tham sân nuôi lớn, thanh danh bị sứt mẻ như trăng khuyết đêm đen.

Qua bài kệ của đức Phật, nếu chúng ta đi vào chánh pháp thì tham sân si, 3 ác pháp này đoạn dứt thì 7 pháp ác kia nó cũng sẽ mất luôn. Do đó chúng ta sống như trăng tròn 16, tròn đầy không có thiếu khuyết một chỗ nào hết. Trăng rằm còn khuyết một chút, chứ trăng 16 thì nó tròn thiệt tròn, không có thiếu chỗ nào, tức là giải thoát hoàn toàn. Chánh pháp giúp cho quý thầy thấu rõ chơn lý của đời người, đó gọi là Minh. Các thầy không rõ chánh pháp nên không thấy chân lý đời là ác pháp, là khổ đau, nên phóng tâm chạy theo vật chất, ham muốn thế gian pháp, cái không hiểu này gọi là Vô Minh.

Mình chạy theo ham muốn, cái đó gọi là Vô Minh. Còn cái mình hiểu đúng chánh pháp thì gọi là Minh. Do không hiểu nên lầm chấp ác pháp là thiện pháp. Do không hiểu tưởng đời sống con người là hạnh phúc, nào ngờ là khổ đau, là không hạnh phúc. Người đời vì lầm nên xây dựng an vui hạnh phúc trên một mảnh đất vô thường, không vững chắc, thay đổi liên tục không dừng nghỉ. Vì thế công trình kiến tạo và xây dựng hạnh phúc, an lạc cho nhân loại là một công trình dã tràng.

Quý thầy thấy người ta phát minh cái này cái kia để người ta đem hạnh phúc cho con người, nhưng càng phát minh thì càng đem lại sự đau khổ nhiều cho con người. Đó là vì xây dựng trên mảnh đất vô thường, mọi vật đều vô thường mà người ta nghĩ đó là thường, người ta lầm chấp cho nên người ta càng cố gắng xây dựng lên thì càng đem lại nỗi khổ cho nhân loại. Càng xây dựng văn minh boa nhiêu thì con người lại càng khổ bấy nhiêu, do họ chỉ xây dựng ngọn mà không xây dựng gốc. 

Do vô minh này mà loài người trên hành tinh này không lúc nào được hòa bình, chỗ này không chiến tranh thì chỗ khác chiến tranh. Càng khoa học, máy móc càng tinh vi thì chúng ta thấy trên thế giới lúc nào cũng có nước có chiến tranh, không bao giờ hết. Tưởng là phục vụ cho nhân loại, cho con người được thanh bình, được an vui, được thương nhau nhưng cuối cùng họ vẫn giết chóc nhau. Họ vẫn tìm mọi cách: về quân sự thì họ tìm mọi cách giết chóc bằng súng đạn, về kinh tế thì họ cũng tìm mọi cách để hại các cơ xưởng, các công trình của kẻ khác, làm cho kinh tế của kẻ khác suy sụp xuống. Đó là những hậu quả của sự văn minh, sự tiến bộ mà xây dựng trên cái ngọn, không xây dựng ở cái gốc. Vì xây dựng trên cái ngọn là xây dựng trên mảnh đất vô thường, xây dựng trên các vật vô thường thì làm sao mà có sự hạnh phúc an vui vĩnh cửu được.

Pháp Tu Cư Sĩ - Tứ Vô Lượng Tâm - XẢ TÂM THAM ĂN

 4.- XẢ TÂM THAM ĂN

Bây giờ đến phần xả vô lượng tâm ăn. Cái ăn cũng vô lượng lắm bởi vì ăn món ăn này, ăn món ăn kia, ăn món ăn nọ, đủ thứ hết. Bởi vì cái ăn, lúc ăn đường, lúc ăn bánh. Nếu thèm một chút là chúng ta bị ăn lôi cuốn đó. Cho nên người ta làm đủ loại bánh, lúc thì làm bánh mùi này, lúc làm bánh mùi kia, lúc thì làm nó ngọt, lúc thì làm lạt. Rồi thực phẩm ăn hàng ngày cũng vậy, cơm thì cơm chiên, cơm xào, cơm chưng, cơm nấu đủ loại. Nào là cơm nấu bằng nước dừa, cơm nấu bằng nước này nước kia để cho thay đổi khẩu vị. Do đó chúng ta phải xả vô lượng thực phẩm ăn này, cho nên nói xả vô lượng tâm ănlà xả vô lượng tâm háo ăn, tâm thích ăn ngon, tâm thích đủ mọi loại. Phải xả nó đi, nhưng mà xả không có nghĩa là để chúng ta ăn muối. Chúng ta xả nghĩa là để cho cái ăn không lôi cuốn chúng ta, không để chúng ta đắm đuối nó, như vậy là điều kiện chúng ta xả cái ăn. 

Ăn là một dục lạc lớn trong ta. Thân ta phải ăn mới sống. Nhưng ăn lại là một dục lạc lớn. Ăn mà còn cầu ngon, chê dở, thì đó là dục lạc ăn đã lôi cuốn ta, nghĩa là mình thấy ngon thấy dở đó là mình đã bị dục lạc rồi. Ăn mà còn cầu bổ, cầu béo, cầu mập thì đó là bị dục lạc ăn cám dỗ chúng ta rồi. Chúng ta ăn vốn là để sống, để giải trừ bệnh đói chớ không phải để cho mập cho béo. Khi mình mập béo khỏe mạnh là mình không chết sao? Có người nào mập béo khỏe mạnh mà không chết? Cho nên ăn nghĩ cho nó bổ, cho nó mập, cho nó béo để cho nó sống trường thọ, thì điều suy nghĩ đó là điều lầm lạc, hiểu sai.

Phật nói cái thân này là vô thường, nó không thể nào kéo dài cái mạng sống nó quá số thời gian được. Mặc dù chúng ta ăn có đủ chất bổ nhưng nó cũng chỉ duy trì sức khỏe chứ không sống thêm một thời gian nào.

Ăn mà thấy ớn, thấy ngán, nuốt không vô đó cũng là dục lạc ăn cám dỗ, chớ không phải nói chúng ta thấy ngon là nó cám dỗ đâu, mà thấy ớn, ăn không vô cũng là bị cám dỗ rồi đó. Ăn mà thấy ưa thích là bị dục lạc ăn cám dỗ. Ăn mà không cầu ngon, không chê dở, không ngán, không ớn, không chê, là dục lạc ăn không cám dỗ. Chúng ta phải phân biệt. Chúng ta có đồ ăn ngon mà chúng ta không thích, chúng ta ăn dở mà chúng ta không ngán, chúng ta không ớn thì đó là dục lạc ăn không cám dỗ. Ăn để sống. Chúng ta phân biệt được câu này để chúng ta hiểu rằng khi chúng ta ngồi ăn mà thức ăn ngon thì chúng ta thấy cũng như khi ăn món ăn dở, chúng ta không tham, không ngán, không ớn gì hết thì đó là cái ăn của chúng ta không bị dục lạc ăn cám dỗ. 

Tóm lại, ăn là thứ dục lạc ghê gớm. Thực phẩm tiếp xúc với vị giác của chúng ta gây sự cám dỗ lôi cuốn rất mạnh. Người thế gian phàm phu chưa học Thánh pháp và Tùy pháp nên đều bị ngã gục trong mặt trận đồ ăn uống này cám dỗ. Nghĩa là mọi người ở trong thế gian đều bị sự ăn uống cám dỗ lôi cuốn, ngã gục trên mặt trận cám dỗ này chứ không có người nào thoát ra khỏi được. Chỉ có những bậc tu hành đúng giới luật của Phật mới thoát ra khỏi sự cám dỗ của ăn uống. Chứ còn lơ mơ là người nào cũng bị dính hết. Các thầy thấy rất rõ lâu ngày không ăn đường, không có gì hết thì thấy nó thèm rồi, lúc bấy giờ là lúc mình chiến thắng lại chất ngọt đó. Nếu không, khi thấy người ta mời một ly sữa hoặc một ly nước ngọt là nghe run người rồi, thèm quá chảy nước miếng rồi, đó là cái ăn cám dỗ. Có nhiều người thích me chua, khi nghe người ta nói đến me thì nước miếng chảy ra ròng ròng rồi. Đó là cái gì? Cái đó là cái cám dỗ của cái chất chua. Nó làm cho chúng ta chảy nước miếng ra, đó là nó làm cho chúng ta thích, nó cám dỗ chúng ta. Chúng ta biết cái ăn có sự lôi cuốn rất mạnh. Ngay khi nghe cái tiếng thôi chứ chưa thấy người ta nhai nữa, là nước miếng mình chảy lau hoài không hết. Đó là cái thèm ăn kích thích, nó làm cho chúng ta thèm. Nó là một sự thật. Nó có sự cám dỗ rất mạnh, nó làm cho chúng ta khao khát, thèm muốn dữ lắm. Trong thân của chúng ta có tính chất đó như vậy. 

Cho nên người tu sĩ đạo Phật chúng ta chiến thắng lại nó. Không thèm. Mà không thèm thì chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải hướng tâm Như lý tác ý, ám thị nó. Cho nên thấy người ta nhai me mà nước miếng mình không chảy là mình đã thành tựu rồi đó. Còn khi thấy người khác nhai me mà mình ngồi đây chảy nước miếng thì pháp tác ý chưa thành tựu đâu, pháp tác ý của mình chưa viên mãn đâu, phải tập nữa, phải tu nữa. Một ly nước ngọt, một ly sữa, một cái bánh, một cái kẹo, một trái cây rất tầm thường mà quý vị không khéo giữ gìn là quý vị phạm lỗi ăn uống phi thời. Bị cám dỗ mà không biết còn lý luận che đậy tội lỗi. Thậm chí một viên thuốc vitamin C chua chua ngọt ngọt và các loại thuốc khác có hình thức như kẹo để chống ho, chống viêm cổ mà đặt nó vào miệng để ngậm còn phạm tội phi thời thay huống là theo dục lạc, đã bị cám dỗ bởi vị giác của quý vị. Đó, một viên thuốc thôi, nó ngọt ngọt chua chua, nó làm kẹo the này kia nọ mà bỏ vào miệng phi thời thì ngay đó quý thầy đã bị phạm phải lỗi ăn phi thời. Thầy kết luận như vậy để cho quý thầy thấy rằng sự tu hành chúng ta phải chiến thắng tận cùng, không để chúng ta chạy theo vị giác cám dỗ chúng ta khi tiếp xúc với thực phẩm. Và thực phẩm tức là ăn.

Người tu sĩ phải cảnh giác đến mức độ đó như vậy mới thấy được sự giải thoát thân tâm mình. Nó lý luận là bây giờ chúng ta khô cổ này, chúng ta phải ngậm cho nó. Cũng như quý thầy làm ly nước chanh đường để cho Thầy thông cổ. Đó là cái lý luận để che đậy, chứ Thầy nói suốt ngày Thầy có uống ly nước chanh nào, nhưng mà Thầy có khô cổ đâu. Nếu cứ lát nhấp chút, lát nhấp chút thì để nuôi dưỡng vị ngọt, vị chua cho khoái khẩu chớ đâu phải là cái gì khác hơn. Tức là lý luận để nuôi lớn cái dục chứ không phải gì hết. Cho nên gọi là xả tâm vô lượng thì phải thấy được những cái vi tế của nó, thấy được sự che đậy vi tế của nó, trong khi chạy theo dục lạc thế gian mà không lường trước được những tai họa sau này thì tất cả những cái dục lớn đều thể hiện ra hết. Từ phi thời một viên thuốc nhỏ mà không chận đứng, không chấm dứt thì chúng ta sẽ bị tất cả những vật cám dỗ khác lôi cuốn hết.

Người tu sĩ cảnh giác như vậy, đề phòng như vậy, phòng hộ 6 căn của mình như vậy mà tu còn khó khăn thay, huống hồ những kẻ không phòng hộ. Thử hỏi như một người tu hành không phòng hộ 6 căn mà ra chợ nhiếp thiền định thì thiền định làm sao được. Người ta sinh ra, ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Thế mà kẻ không hiểu pháp thánh hiền, không tùy Thánh pháp nên trở thành sống để ăn. Chúng ta là những người hiểu được pháp Thánh hiền thì chúng ta biết ăn là để giải trừ bệnh đói chứ không phải ăn để ngon để ngọt nữa. Người phàm phu không biết pháp cho nên sống để ăn. Bây giờ họ sống ăn cho đã đi, ăn cho đầy đi, ăn cho ngon đi, chạy theo dục lạc ăn cho đã đi, nghĩa là họ không biết cái gì hết, miễn món ăn nào ngon trên thế gian này là phải mua ăn cho được, thì những người đó là những người chạy theo dục lạc. Người tu sĩ Phật giáo phải làm chủ cái ăn, không được ăn phi thời. Ăn uống phi thời là phi phạm hạnh, là chạy theo dục lạc, mà chạy theo dục lạc ăn là ngạ quỷ, là coi như mình là loài ngạ quỷ, là quỷ sa tăng.

Phần đông tu sĩ Phật giáo hiện giờ từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc, từ trên xuống dưới đều bị quỷ dục lạc ăn cám dỗ và lôi cuốn xuống địa ngục tất cả. Không khắc phục được ma dục lạc ăn thì làm gì tu tập chánh thiền, chánh định được? Tu tập sai một ly hào là cách xa đạo giải thoát một ngàn dặm. Đi tìm đạo giải thoát mà trói mình trong ăn uống thì giải thoát ở chỗ nào? Người ở thế gian bị dục lạc ăn trói buộc đã đành, người tu sĩ Phật giáo là đạo giải thoát mà bị trói buộc vào dục lạc ăn uống thì có phải xấu hổ vô cùng, vô tận không? 

Ăn mà không giải thoát thì giải thoát cái gì đây? Giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết. Thầy nói ở đây là sự thật. Một người nhập thiền định là người ta giải thoát được cái ăn, người ta không ăn mà người ta không chết. Đó là giải thoát được cái ăn chớ gì. Rồi người ta lại phục hồi cơ thể người ta sống lại người ta ăn. Thì như vậy là người ta đã làm chủ được sống chết. Còn mình không giải thoát được cái ăn thì làm sao gọi là mình làm chủ sống chết? Cho nên cụ thể rõ ràng, không thể nào chối cãi được lời này. Thầy nhắc lại: giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết. Cụ thể thứ nhất cho chúng ta thấy: Một người tu thiền định mà ngồi 7 ngày không ăn uống là giải thoát được 7 ngày sống chết. Người ngồi thiền định mà nhập được một tháng không ăn uống là người đó đã làm chủ sống chết được một tháng. Mà người nhập thiền định mà không ăn uống một năm là người đó làm chủ sống chết trong một năm. Cái đó nó quá rõ ràng. Có cụ thể như vậy, nghĩa là bây giờ chúng ta làm chủ được sống chết trong một ngày là chúng ta không ăn một ngày mà chúng ta không chết thì đó là làm chủ được sống chết, mà 2 ngày, rồi 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 2 tháng,… điều đó chứng minh cụ thể không thể nào ai chối cãi được. Còn bây giờ ông nói thiền định gì mà ngày nào cũng ba bữa thì chắc chắn là ông ta không làm chủ sống chết được đâu. 

Đó, quý thầy hiểu rõ được con đường thiền định của đạo Phật thực tế và cụ thể chứng minh qua chỗ ăn của quý vị. Và ăn là một thứ dục lạc rất nặng ở trong thân con người. Vì có thân phải có ăn. Cho nên ăn như thế nào để đúng cách là người tu sĩ, ăn như thế nào không đúng cách của người tu sĩ. Người ta tuy tu nhưng cái ăn người ta chưa đúng cách của người tu sĩ thì chưa phải con người tu giải thoát. Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống, đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại, đó là làm chủ cái sống. Người tu sĩ nhập thiền định thì người ta làm chủ được cái này rõ ràng, ở đây quý thầy cũng sẽ lần lượt chứng minh điều đó. Còn làm chủ bệnh, già ưu bi sầu khổ là chỗ nào? Là chỗ lìa 3 sự dục lạc cám dỗ ở trên kia: danh, sắc và lợi. Ở đây lìa cái ăn là chúng ta làm chủ được sự sống chết, mà lìa được chỗ ưu bi sầu khổ, phiền não đau khổ giận hờn thì quý vị phải lìa 3 sự dục lạc ở trên, tức là danh, sắc và lợi. Nói cho rõ ra từ chỗ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn, từ bỏ danh thế gian nhỏ, quyền tước lớn, quyền tước nhỏ, vật chất lớn, vật chất nhỏ thế gian, chỉ sống tri túc thiểu dục một bát ba y mà thôi, đó là chỗ đức Phật dạy: “Sanh đã tận thì mới giải thoát được sanh già bệnh chết, ưu bi, và chấm dứt luân hồi tái sanh”

Đó, đức Phật cũng dạy chúng ta sanh đã tận, tức là chúng ta phải xả bỏ 3 thứ dục lạc kia đi, tức là danh sắc lợi đó. Chúng ta xả bỏ ba thứ đó đi, ba thứ đó là những sợi dây triền phược trói buộc chúng ta, cho nên chúng ta xả bỏ. Xả bỏ 3 thứ dục lạc tức là sanh đã tận thì con đường giải thoát của chúng ta không còn luân hồi nữa. Chấm dứt luân hồi. Chúng ta thấy rất rõ ràng và cụ thể. 

Đứng ở trong góc độ của 5 thứ dục lạc này thì chúng ta đã phân được ra chỗ nào làm chủ tâm không còn tái sinh luân hồi, chỗ nào làm chủ được thân sống chết, cụ thể rõ ràng. Tại sao vậy? Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại, đó là làm chủ cái sống.

Pháp Tu Cư Sĩ - Tứ Vô Lượng Tâm - XẢ TÂM DANH

 TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT


 

II.- PHÁP TU CƯ SĨ

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM (Bài 5)

E.- TRAU DỒI TÂM XẢ VÔ LƯỢNG (Bài 2/2)

3.- XẢ TÂM DANH

Bây giờ đến xả vô lượng tâm danh để chúng ta biết không phải chỉ có một cái danh, cái danh có rất nhiều. Hồi nãy là mình xả tiền của, bây giờ tới cái danh. Sắc, rồi tiền của, rồi danh, có 5 thứ dục lạc, bây giờ mình tới được phần thứ 3 là xả cái danh.

Danh là gì? Là tiếng khen, tiếng ca ngợi, tiếng tán thán, tiếng tốt đẹp, vinh quang, hiển hách, chứng ngộ, chứng đạo, được trao truyền quan chức, trao truyền tâm ấn, cấp bằng này, cấp bằng nọ, đại đức, thượng tọa, hòa thượng, sư bà, sư trưởng, giám đốc, phó giám đốc, viện trưởng, viện chủ, trưởng ban, phó ban, giáo chủ, pháp chủ, thiền đức, cao tăng, giới đức, thánh hiền, thần, thánh, tiên, Phật... đều là những danh từ chỉ cho danh. 

Các thầy thấy rõ cái danh, nó làm cho chúng ta mê thích lắm. Ai mà không muốn làm trụ trì? Ai mà không muốn làm viện trưởng? Ai không muốn làm viện chủ? Người nào mà được gán cho mình là giáo chủ, viện chủ, rồi thiền chủ, pháp chủ, rồi cao tăng, rồi giới đức… thích lắm. Coi như là bậc vĩ đại rồi, hơn thiên hạ rồi, ngồi trên thiên hạ rồi. Đó là cái danh mà. Cho nên thần, thánh, tiên người ta cũng ca ngợi vì vậy mà những cái danh đó làm cho con người thích lắm. Mà khi được cái danh như vậy thì người ta khoái vô cùng tận. Người ta thấy mình trên hết rồi. Do cái danh như vậy nên chúng sanh mê muội, bị cám dỗ, bị lôi cuốn, bị thu hút như đá nam châm. Khiến cho con người chạy theo danh quá nỗi mệt mỏi, cuồng loạn trong tâm của mình. Vì vậy có người thất vọng, tự tử, quyên sinh. Chạy theo cái danh mà không đạt được, cho nên có nhiều người thi cử rớt thì thôi thôi đi tìm cách tự tử cho rồi. Có phải ngu si không? Đi cầu cái danh giả hão như vậy không được mà lại đi quyên sinh cái thân mạng này. Có người thì mệt mỏi thất bại danh lợi rồi vô chùa để tu, thiệt là điên khùng. Chạy theo danh giả đó là những sự cám dỗ của nó làm cho chúng ta quá u mờ, không có thấy được cái ngu đó. 

Danh nhỏ là thầy thợ, nghĩa là mình làm người tôi tớ thì thấy nó xấu xa quá cho nên mình học, để làm ông thầy, mình dở dở thôi làm ông thợ cũng ngon hơn là làm thằng đầy tớ. Đó là cái danh nhỏ đó, nó cũng là cái danh. Danh lớn là ông này bà kia, danh nhỏ là thầy thợ, thầy ký, thầy thông, thầy này thầy kia nghe cũng thơm. Thầy giáo cô giáo thì nghe cũng khoái còn hơn người ta nói là con đầy tớ hay là thằng ở thì nghe nó nhục nhã quá. Phải không?

Cho nên chúng ta đều bị ở trong cái danh lôi cuốn chúng ta. Rồi từ cái danh nhỏ lần lần đi tới cái danh lớn. Để thành ông này bà kia, rồi người cai quản cái này, người cai quản cái kia để coi như mình có chủ động điều khiển được một số người dưới tay của mình. Như thí dụ về quân đội thì có ông phó đội trưởng, rồi đội trưởng, rồi ông trung đội trưởng, rồi đại đội trưởng, … Đó, các con thấy tất cả những cái đó là cái danh để cho thấy cái quyền hạn của người ta ở trong cái danh đó làm được những gì đó, cho nên người ta ham lắm. Từ ông tiểu đội phó mà lên cho được ông đại tá, mà khi được làm ông đại tá thì mặt họ nghênh nghênh ở trên trời, họ coi nhưở dưới đất này không còn ai hết. Đó là cái danh. Cái danh làm cho cái ngã họ lớn lên, điên khùng, chớ họ cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt, cũng đau cũng khổ, cũng buồn cũng khổ cũng nhức nhối như mình, chứ khác gì đâu. Thế mà gán cho cái danh thì họ thấy họ hơn hết. Cho nên khi gán cho họ cái danh rồi thì có nhiều người thấy họ bèn khúm núm, khúm núm. Họ là cái gì mà phải khúm núm? Họ cũng như mình, có gì đâu mà phải sợ. Chỉ có cái danh không mà chúng ta đã quá sợ rồi. 

Ở đây Thầy xác định để cho chúng ta thấy cái danh cám dỗ chúng ta rất mạnh như vậy, làm cho chúng ta phải sợ hãi như vậy. Từ những cái danh này mà người ta điên khùng, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, ton hót để cầu cho được cái danh. Có nhiều người đi thi phải đem tiền bạc, lo lót tiền bạc để cho đậu. Đó không phải đem tiền để mua danh sao? Đó là những cái sai, cái không đúng mà người ta lầm chấp, vì cái danh nó cuốn hút họ quá. Họ muốn có cái tên tuổi như thế này nhưthế khác. Cũng như Thầy nói như thế này: có nhiều người không ai biết đến hết, bây giờ đùng ra cái họ tập trung một số người đi làm từ thiện, kêu gọi nhau đóng góp. Để làm gì? Đó chẳng qua cũng là cầu danh từ thiện chứ chưa chắc là họ đã thương yêu người khác thật. Làm những việc bố thí đó, người ta nhận giấy tờ này giấy tờ kia đầy ắp lên để làm gì? Để mai mốt đem ra khoe tôi bố thí chỗ này chỗ kia. Đó không phải là danh sao? Danh từ thiện, danh tôi biết thương người. Nhưng mà thật sự ra hở ra một chút thì mắng người không nhịn. Các thầy có xét thấy không, có nhiều người làm từ thiện, họ có nhịn ai không? Họ chửi người ta như tát nước. Vậy mà họ thương người à? Hơi hơi chạm đến họ một tí là coi như họ muốn giết mình! Mà là họ làm từ thiện. 

Bởi vì đời nó giả dối, đủ thứ giả dối hết. Người tu mà đi đâu cũng có tiền hô hậu ủng, đầy đường chật xá để chứng tỏ có nhiều người hầu hạ theo mình. Một ông thầy tu mà đi rần rần rộ rộ, năm mười chiếc xe để làm gì? Để tỏ cái danh chứ gì, để có người hầu kẻ hạ chứ gì. Đi đâu cũng tổ chức Phật tử rần rần rộ rộ. Một bậc chơn tu mà đi như vậy! Làm ra cái vẻ như là vua chúa, chứ đâu phải là người tu. Thầy nói ra thì đụng chạm hết cả đám nhưng phải nói, tu phải ra tu, mà không tu thì không tu, chứ đừng làm cái trò trống bệ vệ trong cái danh của mình, để khoe khoang cái giàu sang, cái tài ba của mình. Với sự tài ba của con người có nhằm nhò gì mà khoe khoang. Khoe tài sản của cải là khoe danh giàu sang.

Tóm lại, danh là một thứ dục lạc cám dỗ và nuôi lớn bản ngã con người. Các thầy thấy bản ngã con người lớn theo cái danh của nó chớ không phải nó nhỏ đâu. Cho nên mới làm một người đầy tớ hôm qua mà bữa nay lên làm quan rồi thì cái mặt cái thằng đầy tớ nó ngước lên. Thầy nghe nói câu chuyện như thế này: Có một thằng đánh xe ngựa cho Yến Anh, (Yến Anh làm thừa tướng cho vua Tề), ông ta chỉ là thằng đánh xe ngựa thôi mà ổng đi ra đường ổng hét la người ta tùm lum hết, ổng coi nhưổng là Yến Anh vậy. Các thầy nghĩ như thế nào? Mượn cái oai danh của Yến Anh mà làm oai với thiên hạ, coi như mình là thằng ngon rồi. Đó là mượn danh, chứ chưa phải là cái danh thật của mình mà còn làm như vậy. Bà vợ nẹt ổng, sau đó ổng mới rút đầu lại. Thiệt ra thì cũng có bà vợ có trí, chớ nếu không, vợ chồng cùng vênh váo. Đó là chuyện thằng đánh xe của quan Thừa tướng Yến Anh. Hôm nay Thầy nhắc lại những câu chuyện người xưa, cho thấy điều đó là vì cái danh đó chứ đâu phải cái gì khác. 

Cho nên người tu hành mà biết xả tâm vô lượng danh này thì phải dùng pháp hướng Như lý tác ý. Các con phải nhắc pháp hướng để cho nó biết cái danh là thứ gì, không khéo cái ngã của chúng ta bừng lên theo cái danh đó. Chúng ta phải đánh sập nó xuống, đánh nhẹp nó xuống, không để nó ngóc đầu lên. Cái ngã ham danh lắm, mỗi mỗi chút chút là nó ham danh. Do ham danh đó mới có những anh hùng cá nhân, cho nên người ta không có làm việc lớn cho xã hội được. Từ lâu đến giờ vì anh hùng cá nhân đó mà con người chém giết nhau. Trên thế giới này, nước này yên thì nước kia chém giết, nước kia chiến tranh. Không bao giờ có một nước nào yên, cũng bởi vì anh hùng cá nhân này, nếu anh hùng tập thể thì không bao giờ có sự giết chóc. 

Đạo Phật thì không có anh hùng, cho nên ông Phật đâu có nói rằng ổng là người ngon đâu. Trước ông có 7 đức Phật, sau ông còn có đức Phật Di Lặc. Cho nên một đạo Phật mà có nhiều giáo chủ như vậy tức là sự khiêm nhượng của con người, như vậy mới chính là đạo Phật. 

Muốn xả tâm vô lượng danh ta phải dùng pháp hướng Như lý tác ý nhắc tâm: 

"Danh là một dục lạc ảo giác, nuôi lớn ngã mạn, khiến tâm ta thường đau khổ, hay tranh cãi, lý luận, giận hờn phiền não. Ta hãy xả bỏ, từ bỏ, viễn ly, chẳng mong cầu danh gì cả, chỉ biết tu hành thanh tịnh tâm để ra khỏi sanh tử mà thôi."

Chúng ta chỉ biết giải thoát mà thôi, không cầu ai gọi mình là Phật, là viện chủ, viện trưởng gì hết. Không cần biết ai gọi mình là chơn tu hay không chơn tu nữa. Chỉ biết làm sao làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi của mình mà thôi. Câu ám thị mình như vậy đó. Câu hướng tâm tác ý như lý như vậy để chúng ta xả cho sạch cái danh. Chớ cái danh nó ngầm lắm, nó ngầm ở trong tâm chúng ta, nuôi cái ngã chúng ta dữ lắm. Chúng chưa bộc lộ ra chứ khi chúng ta ngồi lên được một cái ghế danh rồi thì phải biết nó như thế nào. Cho nên hiện giờ Thầy chưa ngồi trên cái ghế danh, Thầy đã sớm xa lìa nó, không cho nó lôi Thầy xuống, không cho nó nhận Thầy xuống cống. Bằng không thì những lời Thầy đang nói ở đây không khác gì Thầy chửi Thầy chứ không ai xa lạ hết, bởi vì Thầy không thực hiện đúng những lời Thầy đã nói ra cho quý thầy nghe, khi ngày nào đó Thầy nhận danh là Viện trưởng thì người ta sẽ nhận Thầy xuống lỗ cống liền. 

Câu hướng tâm thứ hai: 

"Danh là tên giặc hão huyền không có thật. Nó thường lôi cuốn tâm ta tỏ ra những hạnh xấu, hiu hiu, tự đắc, tự cao, tự đại, cao ngạo. Ta hãy xả xuống hết không còn một cái danh gì trong ta. Ta chỉ là một con người như bao con người khác."

Câu ám thị này nhắc nhở mình. Mình chỉ như mọi người khác, bình đẳng như mọi người khác, như những người nhỏ nhất, hạ tiện nhất, giai cấp nhỏ nhất ở trong thế gian này. Mình cũng chỉ là những con người đó. Nhắc như vậy cho nó thấm nhuần, hàng ngày phải đặt niệm trước mặt mà hướng tâm, không khéo hở ra một chút thì bản ngã chúng ta đồ sộ lên, nó chạy theo cái danh đó.

Đó là những câu hướng tâm thực tế và cụ thể giúp quý thầy xả cái tâm danh của quý thầy, cái tâm danh đương đeo đẳng ở trong lòng của quý thầy. Người tu sĩ của đạo Phật chúng ta đã biết mặt 5 thứ dục lạc này, trong đó, cái danh không phải là dễ xả, nó rất mạnh, mạnh hơn tất cả những cái khác. Có ai không muốn danh của mình hơn mọi người? Có ai không muốn mình hơn người? Những cái đó là cái danh chứ không phải cái gì khác. Cho nên biết rõ như vậy thì hàng ngày phải siêng năng tác ý. Dùng tác ý đập cho mạnh những đối tượng danh này cho nó nhẹp, cho nó tiêu, cho nó đoạn tận, cho nó diệt trừ, cho nó không còn ngóc đầu lên được nữa, cho nó chết luôn. Như vậy chúng ta mới có cơ duyên thành được một con người giải thoát hoàn toàn, không còn bị cái danh sai chúng ta làm những điều nô lệ. 

Đây, Thầy dùng pháp hướng Như lý tác ý về danh: 

"Danh là một thứ dục lạc vô hình thu hút và cám dỗ con người rất mạnh, nuôi lớn ngã mạn, cống cao, do đó sinh ra ngũ triền cái tham sân si mạn nghi. Năm triền cái này trói buộc chúng ta muôn đời muôn kiếp sống đau khổ. Vậy ta hãy lánh xa từ bỏ, từ khước, viễn ly tất cả các loại danh."

Đó là câu hướng tâm, câu trạch pháp để chúng ta như cái lý này mà tác ý ra làm cho chúng ta mãi mãi xa lìa những cái danh, những cái lợi, những cái ăn.

"Danh dục lạc có một ma lực vô hình lôi cuốn và cám dỗ con người vào chỗ sanh tử luân hồi. Ta phải từ giã, từ khước, từ bỏ, lánh xa, viễn ly danh dù bất cứ trường hợp nào." 

Nghĩa là bất cứ trường hợp nào dù nhỏ, lớn chúng ta đều phải nhận diện ra nó để xa lánh nó. Nhiều khi nó qua trường hợp khác, nó làm cho chúng ta không thấy đó là cái danh,do vậy chúng ta bị nó gạt. Cho nên đức Phật dạy khi có danh, có lợi, có sự cung kính, chúng ta hãy lánh mặt. Lời Phật dạy, Thầy khắc ghi trong lòng, nhớ mãi muôn đời không bao giờ Thầy quên. Cái ma danh, Thầy biết nó rất mạnh. 

"Người tu sĩ lãnh đạo tăng đoàn mà đón danh lợi vào chùa là đón rắn độc. Rắn sẽ cắn chúng tăng chết hết. Vậy người lãnh đạo tăng đoàn phải xa lánh, từ bỏ, từ khước danh lợi để cứu lấy chúng tăng, để cứu lấy Phật giáo."

Đó là câu nhắc nhở cho những người lãnh đạo, những người tu như Thầy bây giờ. Đó là câu ám thị, ám thị cho Thầy đó. Cho nên câu này đã nhắc đi nhắc lại Thầy rất nhiều. Không khéo thì dẫn danh dẫn lợi vô đây cắn quý thầy chết hết, không có người nào sống đâu. Đó là những điều mà Thầy đã thấy xa, chứ không phải thấy gần đâu. Không phải đợi khi rắn độc danh cắn chết hết cả đám, rồi mới bật ngửa ra đó. Thấy xa như vậy cho nên quý thầy không bị rắn cắn. 

Đây là xả vô lượng tâm danh dục lạc thế gian. Quý thầy phải hằng ngày một lần hai lần, ba lần, bốn lần tu tập như lý tác ý trau dồi tâm mình. Phải xả cho sạch danh lớn, danh nhỏ. Vì danh là vô hình, vi tế rất khó xả nên quý thầy phải đề cao cảnh giác, siêng năng tu tập thì mới xả vô lượng tâm danh này được. Xả nó không phải dễ đâu, cho nên quý thầy phải cảnh giác, siêng năng, phải thường hằng tác ý. Nó móng một xíu quý thầy hổng thấy nó đâu, chừng khi nó lộ tướng lộ hình thấy được thì ôi thôi nó đã cắn mình rồi. 

Khi xả xong vô lượng tâm danh dục lạc này được thì thân tâm quý vị thênh thang, nhẹ nhàng, an lạc với đời sống ba y một bát giải thoát, hoàn toàn Niết bàn tại thế. Nghĩa là xả cái tâm danh rồi quý thầy mới thấy được nó. Tâm danh lợi này còn, thì dù quý vị ở núi cao khổ hạnh tối đa, tâm hồn của quý vị cũng nặng như treo đá. Thí dụ như thầy Chơn Trí về ở trong núi cao trắc trở đó mà cái tâm danh của thầy không xả được thì dù thầy ở trong núi đó, tâm của thầy cũng như treo đá chứ không nhẹ nhàng an lạc gì đâu. 

Quý thầy nên lưu ý năm thứ dục lạc lớn dễ xả. Năm thứ dục lạc nhỏ tuy rằng vật chất tầm thường, một cuốn kinh sách, một bài thơ, một bài kệ, một bài văn, một kiến thức Phật pháp, một kiến chấp, một chai dầu nhỏ, một cục xà bông, một cây kem, một bàn chải, một cây kim, một sợi chỉ đều là ngũ dục lạc nhỏ, khó xả lắm quý vị. Hãy đề cao cảnh giác, hết sức thận trọng. Xem thì rất thường mà xả thì rất khó. Coi chừng những vật dụng xung quanh quý vị, coi chừng nó nhỏ không ra gì chứ nó trói buộc quý vị lắm đó. Thầy giảng như vậy thì quý thầy phải để ý từng chút từng chút. Nếu là một người tu sĩ thì phải xả cho thật sạch. Một vật nhỏ còn dính thì vật lớn cũng sẽ dính. Nó không tha quý vị đâu. Bởi vì nó là một sức cám dỗ của ngũ dục lạc. Năm thứ dục lạc cám dổ rất mạnh, một vật nhỏ mà còn dính là quý thầy bị tiêu đó, chứ đừng nghĩ rằng quý thầy giải thoát. Thấy mình chùa không to, tháp không lớn, ở chòi tranh vách lá, ở rừng, ở núi, ở hang nhưng mà còn hai cây kim là quý vị đã bị dính, còn một cuộn chỉ to là quý vị đã bị tiêu, còn hai cái y là quý vị đã bị tiêu, chứ không phải tưởng đó là chuyện nhỏ, nó tầm thường. Chuyện nhỏ đó còn là còn nuôi cái mầm chạy theo dục lạc đó. 

Vì thế hôm nay Thầy ẩn bóng để xả vô lượng tâm này cho thật sạch như một người đã chết bỏ xuống hết. Bây giờ sanh đã tận, phạm hạnh mới xong, những việc làm Thầy đã làm hết, không còn trở lui đời sống này nữa. Bây giờ quý thầy mới hiểu được cái chỗ ẩn bóng của Thầy chứ gì. Đó là mục đích của Thầy xả sạch, đó là xả tâm vô lượng sạch đó. Xả vô lượng cho sạch, mà bây giờ mình còn như thế này là mình chưa xả sạch, phải không? Các thầy thấy rõ Thầy bây giờ chưa xả sạch: chưa xả đồ chúng, chưa xả cái chùa mình nè, chưa có ba y một bát, như vậy là chưa xả sạch. Nó còn vi tế, coi chừng cái vi tế này nó sẽ trở thành cái lớn của nó đó. Cho nên ở đây thấy rất rõ. Qua những bức thơ của thầy Thiện Thiền, thầy chưa nhận ra được cái ý chỉ của Thầy cho nên thầy nghĩ rằng phải làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, phải làm Bồ Tát hạnh. Nhưng Bồ tát hạnh là tâm chưa xả sạch. 



Pháp Tu Cư Sĩ - Tứ Vô Lượng Tâm - TRAU DỒI TÂM TỪ VÔ LƯỢNG

 TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT


 

II.- PHÁP TU CƯ SĨ

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM (Bài 1)

B.- TRAU DỒI TÂM TỪ VÔ LƯỢNG

Tâm Tâm Từ Vô Lượng là gì? Tâm Tâm Từ Vô Lượng là lòng mến thương của chúng ta vô cùng vô tận đối với tất cả chúng sanh, từ cây cỏ thảo mộc cho đến loài động vật. Dù con vật hung dữ chúng ta cũng ban rải lòng từ, tránh vô tình gây đau khổ cho chúng sanh; thương mến, đem lại cho chúng sanh cái vui chân thật, cái vui mà do chính lòng từ mang đến, làm cho vạn vật vui mừng, cỏ cây tươi tốt, trong đó có mình.

Ở đây Thầy giới thiệu về Tâm Từ Vô Lượng là nó gần gũi, hồi nãy thì nó bao la mênh mông, lần lần nó đi gần tới cái chỗ hạn hẹp, gần chúng ta thì chúng ta phải thấy cái lòng thương của chúng ta như thế nào. 

Đây là cái phần hạn hẹp đối với cỏ cây, cho nên đức Phật đi không có đạp lên cỏ nữa, đó là cái hành của Phật ngày xưa, thân hành của Phật đi không có giẫm đạp lên cỏ, tránh cỏ, sợ nó bị giẫm đạp nó dập, nó héo úa mà thương xót nó đến như vậy. Đó là cái hành của Phật đối với loài thảo mộc, còn chúng ta thì không như vậy. Cho nên ông Phật ông chấp nhận là theo đạo ổng thì lấy cái nghề đi xin ăn, không có làm hại một con vật, một cây cỏ nào hết. Còn chúng ta thì đụng đâu bứt bỏ hết, nghĩa là bứt đầu nó hết, nhổ luôn cả rễ nữa chứ đừng nói. Còn ông Phật thì không dám đạp lên, còn chúng ta thì đạp bừa lên hết, chỉ miễn là mình sạch sẽ thôi. Thật sự ra thì mình nghĩ rằng mình tu tập chứ chưa giống ông Phật chút nào hết, mình còn xa ông Phật lắm. Ông Phật tổ chức giáo đoàn của ông ta cũng vậy, khuyên lơn đừng có thế, thậm chí món ăn thừa thì ông cũng không cho bỏ ở trên cỏ nữa, sợ cỏ vì cái chất mặn sẽ héo úa đi, bỏ ngoài đất trống; thì đủ biết lòng từ của đức Phật như thế nào rồi. Do theo đạo Phật, chúng ta hãy cố gắng mà thực hiện cái Tâm Từ Vô Lượng này.

Nói về lòng từ thì chúng ta phải phân biệt được cái vui này. Trong đời sống chúng ta có hai cái vui:

1. Cái vui bền bỉ chân thật.

2. Cái vui ngắn ngủi, giả tạm.

Như Phật đã dạy, là làm sao cho người vui mà mình cũng vui và tất cả sanh linh, cỏ cây đều vui tươi. Đó là cái vui lâu dài, chân thật. Đó là cái tâm từ, bi, hỷ, xả của chúng ta ban rải khắp muôn loài vạn vật. Cái vui đó bền bỉ, không bao giờ biến hoại, dù trước bất cứ cảnh nào cũng ban rải lòng từ khắp nơi. Vì thế mà sự vui kia mới được lâu dài. Hôm nay quý thầy nhận ra được cái vui mà cái vui lâu dài và cái vui không lâu dài. Rồi cái vui không lâu dài thì chắc các thầy tưởng tượng ra cũng được rồi. Thầy chưa giải thích nhưng các thầy cũng sẽ hiểu được rồi, chớ không khó gì.

Trong đời sống của chúng ta có hai cái vui. Cái vui thứ nhất là cái vui bền bỉ chân thật. Và cái vui thứ hai là cái vui ngắn ngủi giả tạm. Như Phật đã dạy là làm sao cho người vui mình vui và tất cả chúng sanh cỏ cây đều vui tươi. Đó là cái vui lâu dài chân thật. Đó là cái tâm từ bi hỷ xả của chính chúng ta ban rải khắp muôn loài vạn vật. Cái vui đó là cái vui bền bỉ lâu dài không bao giờ biến hoại, dù trước bất cứ cảnh nào cũng ban lòng từ rải khắp nơi. Vì thế mà sự vui kia mới lâu dài.

Còn cái vui ngắn ngủi, giả tạm, là cái vui còn bị phiền não chi phối, khi tham sân si mạn nghi đòi hỏi được thì thỏa mãn, thì vui, còn ngược lại thì buồn khổ. Cái vui này là vui theo dục lạc, được thì vui, mất thì buồn. Như chúng ta đã biết, dục lạc không bao giờ có thể thỏa mãn được hoàn toàn. Phật dạy: Kẻ ngu si, vô minh mới chạy theo vui dục lạc, nó là thứ dục lạc ảo giác, đâu có thật, chỉ có người trí mới biết mà thôi. Bởi vậy, cả hai lộ trình của Đạo Phật mà Thầy đã dẫn dắt chỉ cho các thầy biết để tu tập trên hai lộ trình này là tìm cái vui chân thật, nơi đó bền lâu, thoát ra ngoài vòng phiền não tham, sân, si, mạn, nghi và không bị dục lạc chi phối. Nó không ồn náo sôi nổi, ầm ĩ. Nó nhẹ nhàng, thầm lặng như một bóng, một hình trong cái vui của cảnh giới siêu phàm giải thoát nhưng lại hòa mình trong vạn hữu của vũ trụ. Cái vui bất tuyệt của vạn pháp, cô đơn mà lại không cô đơn.

Ở đây, quý thầy thấy mình phải chọn cái vui nào là thật, mà tránh cái vui giả, vì Tứ Vô Lượng Tâm là tâm từ bi hỷ xả của chúng ta đem đến cho chúng sanh nguồn vui. Mà nguồn vui ở đây có hai nguồn vui: nguồn vui chân thật và nguồn vui không chân thật. Cho nên chúng ta phải biết nguồn vui nào không chân thật và nguồn vui nào chân thật. Vì vậy phải so sánh hai nguồn vui này để chúng ta tránh nguồn vui không chân thật, mà hãy tìm nguồn vui chân thật để chúng ta thực hiện cái Tứ Vô Lượng Tâm này, để đạt được nguồn vui chân thật đó. Nếu không có 4 tâm vô lượng này thì không bao giờ chúng ta tìm ra được nguồn vui chân thật đó. Do vì vậy, muốn tìm được nguồn vui chân thật thì quý thầy phải hằng ngày trau dồi thân và tâm của mình trong ba hành động của nó. Nghĩa là thân hành, khẩu hành và ý hành. Hằng ngày trau dồi 3 hành động của thân chúng ta như vậy thì chúng ta sẽ có được một nguồn vui chân thật và tâm thương yêu của chúng ta càng lúc càng rộng lớn.

Muốn được vậy thì chúng ta, người cư sĩ cũng như người tu sĩ, phải hằng ngày trau dồi thân tâm mình bằng pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm như Thầy đã nói ở trên. Vậy trau dồi như thế nào?

Trong thân ta có ba hành: một là thân hành, hai là khẩu hành, ba là ý hành.

1. Thân hành có hai: một là chân hành, hai là tay hành.

2. Khẩu hành có hai: một là ăn, hai là nói.

3. Ý hành có ba: một là ý thiện, hai là ý ác, ba là ý bất thiện bất ác.

1.- Trau dồi Từ tâm nơi thân hành

Ở đây quý thầy khi muốn trau dồi nó thì quý thầy biết trau dồi chỗ nào? Cho nên ở đây Thầy vạch ra để cho quý thầy thấy chúng ta phải trau dồi trong những hành động để nó thực hiện được tâm từ bi hỷ xả ở nơi ba hành động đó. Mà mỗi hành động thì nó phải có những hành động riêng của nó như chân mình đi, tay mình thì cầm nắm bắt. Phải theo hành động đó mà trau dồi tâm từ bi hỉ xả của mình ở tại hành động đó.

Còn về khẩu (về miệng) thì cũng có hai hành. Một là hành ăn, hai là hành nói. Như vậy thì chúng ta phải trau dồi cái ăn và cái nói của mình. Chứ nếu không, nói ra thì làm buồn khổ người, mà ăn không đúng cách thì nó làm hại thân mình. Cho nên tất cả những cái này đều làm cho chúng ta buồn khổ, không vui được.

Về ý hành thì có 3, nó nhiều hơn hai cái hành kia. Nó có cái thiện, cái ác và cái bất thiện bất ác. 

Cho nên chúng ta phải trau dồi, và lấy Tứ Vô Lượng Tâm trau dồi ba cái hành động của thân để cho chúng ta thực hiện được cái tâm vui mừng, cái tâm rộng lớn, cái tâm biết thương yêu, cái tâm biết thương xót tất cả mọi loài.

Bây giờ quý thầy bắt đầu trau dồi Từ tâm nơi thân hành của mình, nghĩa là bắt đầu vô mình trau dồi liền. Trước kia Thầy giới thiệu cho quý thầy biết Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào, rồi bây giờ chia nó làm hai cái vui của nó: cái vui lâu dài và cái vui ngắn ngủi giả tạm. Bây giờ chúng ta vào ngay trau dồi. Còn nếu lý thuyết lòng vòng mà không đi thẳng vào sự trau dồi thì chắc chắn chúng ta chẳng đi tới đâu được hết. Nghe nói mà không biết cách thực hành, không biết cách làm thì Tứ Vô Lượng Tâm này chẳng qua chỉ nói suông thôi, chứ không thể nào thực hiện được cái tâm từ bi hỷ xả chúng ta. Một lời nói mà chúng ta không nhẫn với nhau, không nhường nhau, một ý kiến mà chúng ta không thuận nhau, chúng ta có sự tranh chấp thì làm gì mà có sự vui trong đó được, làm gì có lòng từ, lòng biết thương nhau được! Cho nên tất cả những cái này là những điều những người cư sĩ thường tiếp giao với nhau, với mọi người thì phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm càng nhiều càng tốt để đem lại sự an vui cho mình, cho mọi người xung quanh mình.

Bây giờ chúng ta trau dồi về chân của chúng ta. Khi chúng ta đi thì phải dùng theo hành động đi của chúng ta với pháp hướng mà đức Phật dạy trong kinh là Như Lý Tác Ý. Tác ý theo hành động đó bằng pháp hướng tâm, tức là chúng ta dùng một câu như thế nào để gợi lên lòng thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh khi bước đi. Ở đây Thầy xin nhắc quý thầy đây không phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định bằng hành động mà mượn hành động chân đi để thực hiện tâm từ của chúng ta dưới bàn chân, dưới bước đi của chúng ta. Cho nên chúng ta dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý khi chúng ta bước chân đi. Pháp hướng như thế nào? Thầy đọc các câu ví dụ để rồi quý thầy tùy theo đó mà tự mình soạn ra pháp hướng cho phù hợp với đặc tướng của mình thì áp dụng sẽ có hiệu quả. Còn đây chỉ là câu ví dụ để cho quý thầy mượn đó mà bắt chước mà thôi. Nếu quý thầy lấy câu ví dụ này mà áp dụng vào mình thì chưa hẳn là đúng đặc tướng của mình. Đạo Phật khó là ở chỗ phải biết áp dụng đúng pháp hướng thì mới có hiệu quả, mà áp dụng không đúng pháp hướng thì nó không có hiệu quả. Đây, Thầy đem một câu ví dụ, trước khi chúng ta áp dụng câu pháp hướng để trau dồi tâm từ bi của mình mà nếu mình không biết hướng thì khó có thể áp dụng cho đúng cách, thì nó không có kết quả tốt cho sự tu tập này.

Còn như người ta nói tâm và ý. Vậy thì lúc nào gọi cái tâm, lúc nào gọi là cái ý? Cái ý là nó có cái ý căn, là cái bộ óc của chúng ta. Còn cái tâm thì nó không có cái tâm căn. Bởi vì nếu nói cái tâm thì nó phải có cái tâm căn chớ? Nhưng mà ở đây Phật dạy chúng ta là ý căn chứ không có bao giờ nói tâm căn. Cho nên khi chúng ta gọi cái căn của ý là nó phải đúng là cái chỗ ý căn của nó, tức là cái chỗ nó làm việc. Vì vậy mà pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý phải như cái lý đúng của nó thì chúng ta tác ý mới có hiệu quả.

Ở đây Thầy nhắc như vậy thì quý thầy phải nhận thấy được chỗ dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý phải đúng lúc, đúng thời hợp, với đặc tướng của mình thì có hiệu quả rất nhanh, còn nếu không như vậy thì không hiệu quả. Cho nên cũng có nhiều người hướng tâm tu tập, nhắc tâm mình rất nhiều nhưng sao thấy nó trơ trơ không kết quả, đó là do mình đặt không đúng tên, đúng họ, đúng trường hợp của nó làm, cho nên nó không hoạt động được. 

Đây là câu ví dụ cho quý thầy khi bước đi thì quý thầy hướng tâm. Khi quý thầybước đi thì quý thầy nhắc từng bước như thế này: 

“Dưới bước chân ta đi có nhiều loài sinh vật nhỏ nhít, có nhiều loài thảo mộc cỏ cây yếu mềm. Ta hãy bước nhẹ nhàng để tránh tất cả sự đau khổ và chết chóc của muôn loài.”

Đó là một câu để quý thầy nhắc trước khi quý thầy bước đi. Khi nhắc như vậy thì tâm quý thầy tỉnh thức ngay tại ở nơi bước đi và quý thầy tránh tất cả những con vật dưới bàn chân quý thầy. Rồi đi một lúc, sợ quên hướng tâm nên quý thầy lại nhắc lại câu đó nữa. Do sự nhắc nhở, do sự sợ làm đau khổ, sợ làm chết chóc muôn loài, nên câu hướng tâm gây cho quý thầy có một tâm thương yêu, thấm thía trong đó. Mà hàng ngày chúng ta đều trau dồi từng bước đi của chúng ta như vậy thì lòng từ của chúng ta ban rải khắp chúng sanh. Một cọng cỏ mà chúng ta không nỡ đạp lên, sợ đạp lên cỏ mềm yếu rồi nó héo úa đi, tức là thể hiện tâm từ của chúng ta ban rải khắp chúng sanh đó. Vừa đi nhẹ nhàng vừa hướng tâm nhắc như vậy lâu ngày tâm ta có lòng từ thương xót tất cả chúng sanh.

Vì hướng tâm nhắc như vậy lâu ngày huân tập trong tâm chúng ta thành một thói quen thương xót chúng sanh. Ở đây quý thầy đã thấy câu Thầy tạm dùng làm câu hướng tâm để trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm, mà khi trau dồi được Tứ Vô Lượng Tâm, cái tâm thương yêu như vậy thì người ta chửi mình, mình có giận nữa không? Khi thể hiện tâm từ được như vậy thì người ta nói một câu nói trái bụng mình, mình có giận không? Không bao giờ còn giận nữa. Cho nên Phật nói từ tâm đối trị tâm sân. 

Nhưng mình phải trau dồi nó. Cho dù mình nói quán, như quán từ bi để đối trị tâm sân, nhưng mình không trau dồi tâm từ thì cái tâm sân của mình có hết không? Khi nghe người ta mắng chửi mình thì mình nói: Ừ, tôi cũng biết Tứ Vô Lượng Tâm, tâm từ là đối trị tâm sân. Tôi thường quán phải thương người bằng cách này bằng cách khác, hằng đêm tôi ngồi tôi quán luôn luôn lúc nào tôi cũng thương. Nhưng mà tại sao người ta chửi mình là mình giận, mình dữ lên? Cái đó là do mình chưa trau dồi trong hành động. Có trau dồi trong hành động thì nó mới thể hiện qua hành động của chúng ta. Cái tâm chúng ta thường nhắc trong các hành động, nó làm cho chúng ta thấm nhuần được lòng thương yêu đó. 

Còn bây giờ chúng ta ngồi ở trên ghế chúng ta nói bây giờ chúng ta cũng quán từ bi hỷ xả.Đó là quán, còn cái này là hướng, nó khác. Hướng theo hành động mà trau dồi, nó ở trong cái động. Còn quán là mình ngồi im lìm, rồi tư tưởng mình khởi nghĩ ra, quán mình phải thương yêu chúng sanh bằng cách này bằng cách khác, như thế này hay thế khác. Quán không biến ra hành động cho nên không trau dồi từ bi cho thân tâm của mình được. Cho nên quán chỉ là cách tránh né trong một lúc nào đó để cho mình bớt giận hờn phiền não trong lòng mà thôi, rồi mình suy tư cái này cái kia để cho mình xả bớt cái tâm buồn khổ của mình, chớ đối tượng của mình, mình đã chửi người ta hồi chiều rồi thì làm sao mà xoá sạch cái phiền não được? Còn trau dồi là tu ở trong những hành động để chúng ta biến dần cái tâm từ bi, cái tâm thương yêu chân thật của chúng ta thành sự thật. 

Đó là cách thức mà Thầy giảng ra đây để cho quý thầy thấy được cái chỗ chúng ta sẽ tập luyện. Bởi vì đây là vai trò của người cư sĩ khi mới bước chân vào đạo Phật các người cư sĩ đã luyện tập cái này rồi chớ không phải là vai trò của người tu sĩ. Khi đã đi sang giai đoạn của tu sĩ là giai đoạn giữ gìn giới luật, tu tập thiền định. Nó không thể nào còn có thời gian mà chúng ta tu tập thiền định nữa. Đợi tới khi làm Bồ Tát rồi ta mới trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm thì quá trễ. Còn giai đoạn của người cư sĩ là phải thực hiện tâm từ, tâm bi, tâm hỉ, tâm xả của mình để đối xử với nhau với một lòng thương yêu, làm cho xã hội ngày càng tốt, đất nước thanh bình, không có sự tranh chấp, không có sự tranh đua hơn thiệt với nhau. Do có tâm từ nó mới không có những tai nạn đó.

Đó là hành động khi chúng ta đi. Bây giờ tới cái hành động khác nữa. Khi chúng ta đứng lại chúng ta cũng nhắc vậy. Khi mình đi thì thường nhắc câu hướng tâmtrên, mà khi mình đứng, không còn đi nữa, mình phải nhắc một câu khác để hướng tâm như cái lý trong khi mình đứng: 

“Chúng sanh quanh ta rất nhiều từ loài côn trùng nhỏ nhít cho đến các loài thảo mộc yếu mềm, ta đừng đứng trên chúng, vì đứng trên chúng chúng sẽ đau khổ và chết chóc, héo úa.”

Đó là một câu để chúng ta hướng tâm trau dồi lòng thương yêu đến với tất cả muôn loài.

Hôm nay khi quý thầy đã học được những câu hướng tâm như vậy thì quý thầy nhớ khắc ghi trong lòng. Hằng ngày ít ra quý thầy cũng tập nó được ba, bốn lần; chứ đừng có học rồi xếp lại đó, để đó, thì cái công của Thầy giảng dạy quý thầy như thế này, Thầy thấy mệt mỏi vô cùng. Vì quý thầy được học thì phải tu tập để đền đáp lại ơn Thầy. Thầy đã đem hết sức mình ra giảng dạy cho quý thầy từng câu nhắc nhở nhỏ bé như vậy, để tạo cho quý thầy có lòng thương yêu chơn thật nơi tâm hồn của quý thầy, để khi đứng trước các đối tượng quý thầy thoát ra khỏi cảnh đau khổ chính bản thân của quý thầy. Thế mà học rồi quý thầy xếp bỏ vào một góc nào đó, thì thiệt là mỏi mệt cho Thầy vô cùng.

Có tu tập như vậy thì lòng ta từ từ thấm nhuần lòng từ bao la thương yêu tất cả muôn loài vạn vật muôn phương. Nếu khi đứng, chúng ta cũng tập như vậy để nhắc nhở chúng ta đứng tránh gây những sự đau khổ cho chúng sanh, thì nhờ đó giúp cho chúng ta có được một lòng thương, từ đó lòng thương này sẽ thấm nhuần muôn vật, muôn phương.

Bây giờ đến hành động nằm. Bởi vì thân của chúng ta có bốn hành động đi đứng nằm ngồi. Cho nên bây giờ tới cái hành động nằm. Khi nằm ta cũng nhắc như vậy. Nghĩa là mỗi hành động chúng ta phải nhắc, và một ngày chúng ta có bao nhiêu lần đi, đứng, nằm, ngồi, mà mỗi lần đi đứng nằm ngồi là mỗi lần nhắc như vậy thì trong một ngày chúng ta đã thấm nhuần được rất nhiều lòng thương yêu. Tức là chúng ta trau dồi được rất nhiều lần. Một người thợ vót tên, mà ông ta ngồi vót kỹ lưỡng hẳn hòi thì cái tên phải suôn, phải láng, phải tốt. Còn nếu chỉ vót 2, 3 cái rồi bỏ thì cây tên nó có suôn không? Chắc chắn là không suôn bằng người thợ chăm chỉ ngồi vót hoài. Vì vậy mà tâm chúng ta cũng phải trau dồi, trau chuốt nó mãi để cho nó được tốt đẹp, để cho nó có lòng thương yêu thật, để cho nó được đứng trước các đối tượng nghịch ý mà tâm nó như như vui vẻ, không có buồn khổ.

Khi nằm ta nhắc câu tác ý như: 

“Tất cả chúng sanh đang ở dưới lưng ta. Ta hãy nhẹ nhàng chú ý xem xét coi có chúng sanh hay không rồi mới nằm”.

Nhiều khi lên giường ván thì quý thầy nằm đại. Mệt mỏi quá rồi nằm đại, không ngờ dưới lưng chúng ta có những con vật, chừng nhìn lại thì có một con nhền nhện bị mình nằm chết cứng ở trong đó rồi, hoặc là một con gián hay hoặc là một con vật nào đó, thậm chí như con bò cạp bị chúng ta nằm lăn qua lăn lại trong khi nó nằm ở dưới lưng chúng ta, đến khi quét dọn hoặc là xếp mùng màn thì thấy một con vật đã chết ở dưới lưng ta. Như vậy là chúng ta đã vô tình không thực hành trau dồi tâm mình trong khi nằm nên đã làm hại chúng sanh.

Khi chúng ta nằm, cái thân của chúng ta to lớn nên sức nặng nhiều quá, còn cái thân của chúng sanh bé nhỏ, giãy giụa dưới lưng ta, ta đâu biết được, trong khi chúng rên la đau đớn, chúng ta đâu nghe được. Vì vậy mà vô tình chúng ta nằm trên sự đau đớn của chúng sanh mà không hay biết.

Muốn trau dồi lòng từ thì chúng ta phải năng nổ, siêng năng tu tập; hằng ngày nhắc đi nhắc lại tâm mình nó mới thấm nhuần được. Khi nằm lăn qua trở lại, ta cũng phải lưu ý và nhắc: 

“Tất cả chúng sanh đang ở bên ta, hãy ý tứ đừng nên vô tình mà làm đau khổ và chết chóc chúng.”

Đó là những câu để chúng ta hướng tâm nhắc mình thực hiện cho được tâm từ bi hỉ xả của mình. Mỗi hành động của thân ta đều nhắc như vậy, lần lần tâm ta thấm nhuần tình thương yêu chúng sanh rộng lớn bao la.

Bây giờ đến ngồi. Bởi vì trong cái thân của chúng ta có các hành động đi đứng nằm ngồi. Tất cả những hành động này, nếu chúng ta thiếu sót một điều không tu thì đó là chúng ta đã thiếu khuyết. Khi ngồi ta cũng nhắc hướng tâm câu như: 

“Nơi ngồi của ta có những chúng sanh nhỏ nhít, phải lưu ý khi ngồi, Đừng vô tình ngồi trên chúng sanh làm chúng đau khổ và chết chóc. Khi ngồi đừng lắc qua lắc lại vì lắc qua lắc lại va chạm làm đau khổ chúng sanh và chết chóc.”

Quý thầy thấy oai nghi của một người ngồi lắc qua lắc lại với cái oai nghi của người ngồi không lắc qua lắc lại, người nào oai nghi tốt hơn? Đó, quý thầy thấy trong cái tu tập của tâm từ bi mà nó biến thành oai nghi tế hạnh của một con người nghiêm chỉnh. Đi thì nhẹ nhàng, luôn luôn lúc nào cũng ngó xuống để tránh tất cả chúng sanh mà lại là phòng hộ được 6 căn của mình nữa. Các thầy thấy đó là một điều lợi ích rất lớn cho bước đường tu tập theo đạo Phật. Nó làm toát ra những đức hạnh mà con người ở thế gian này khó có thể theo được. Bởi vì con người ở trong thế gian chạy theo dục lạc, cho nên mắt thì liếc ngó để tìm cái nào cám dỗ thu hút thích thú, còn người tu sĩ thì đâu còn chạy theo cái dục lạc cho nên mắt nhìn xuống đất để luôn luôn phòng hộ; mà nhìn thì thấy tất cả loài vật để thực hiện trau dồi tâm từ thương yêu của mình tránh sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh. 

Đó là những lúc đi, đứng, nằm, ngồi ta từng nhắc như vậy và nhắc từng mỗi bước đi để ta không quên và cố tránh được sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh. Đây là sự trau dồi trong các hành động của thân chúng ta, khi đi, đứng, nằm, ngồi.Như vậy là đối với cái thân chúng ta, ở đây tạm thời đủ để quý vị hằng ngày trau dồi, bởi vì hằng ngày quý vị cũng có khi ngồi, có khi đi, có khi đứng, có khi nằm; không thể trong một ngày mà chúng ta không thực hành 4 oai nghi này. 

Cũng như khi quý vịmuốn vào giảng đường thì quý vịphải bước vào đây; trước khi bước vào thì quý vị phải đi, cho đến khi quý vị ngồi thì quý vị phải lưu ý chỗ ngồi, rồi đứng quý vị cũng lưu ý chỗ đứng. Cho nên mỗi việc làm chúng ta đều có sức tỉnh thức ở trong đó hết. 

Như vậy chúng ta có tu chánh niệm tỉnh thức đâu nhưng mà sức tỉnh thức chúng ta có do trau dồi lòng từchúng ta có sức tỉnh thức. Kế đó lòng từ chúng ta càng lúc càng rộng lớn bao la do pháp hướng nhắc tâm làm cho tâm chúng ta thương yêu chúng sanh vô bờ bến. 

Trau dồi lòng từ trong hành động của thân còn gợi lên lòng thương xót của chúng ta đối với chúng sanh bằng sự hành động cẩn thận của mình để tránh sự đau khổ và chết chóc cho chúng sanh. Khiến cho tâm chúng ta càng lúc càng thương yêu chúng sanh nhiều hơn. Nghĩa là các hành động của chúng ta hằng ngày mà được trau dồi thì Thầy tin rằng lần lần quý thầy sẽ có sức tỉnh thức rất lớn và đồng thời lại có lòng thương yêu càng nhiều. Và lòng thương yêu càng nhiều thì nó sẽ cứu quý thầy thoát ra khỏi tâm tham, sân, si, mạn, nghi, không bao giờ còn có tâm niệm xấu. Vì vậy ngũ triền cái quý thầy sẽ xả bỏ, đoạn trừ, dứt hẳn, từ giã nó không bao giờ còn ở trong tâm của quý vị nữa.

Khi Tứ Vô Lượng Tâm này đã ngự trị trong tâm hồn của quý vị thì năm triền cái này phải rớt đi, phải xa quý vị đi, không còn có nữa. Còn nếu không có như vậy, không trau dồi được Tứ Vô Lượng Tâm này thì ngũ triền cái vẫn đeo đẳng theo quý vị, chỉ đến khi nào quý vị thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm nó mới dứt được. Nó không đơn giản, nhưng chúng ta cần có sức tu tập bền chí siêng năng thì nó mới đạt được. 

Bây giờ lòng mình nói thương mà sự thật mình có thương được chưa? Chưa. Mình thương mình chứ chưa chắc đã thương ai. Thầy nhắc lại một câu chuyện để chứng minh rằng mình thương mình chứ chưa có thương ai hết. Nhưng mà mình nói rằng mình thương người này người kia, sự thật ra mình chưa có thương. Tại sao vậy? Có câu chuyện như thế này:

Bà hoàng hậu Vi Đề Hy hỏi đức vua Bình Sa Vương (Bimbisara):

"Bệ hạ có thương thần thiếp không?"

Nhà vua làm sao lại không thương hoàng hậu, cho nên nhà vua nói nhà vua rất thương hoàng hậu, nhưng tại sao hoàng hậu lại hỏi vậy? Thì bà Vi Đề Hy nói:

“Bệ hạ nói chứ bệ hạ chắc không thương thần thiếp đâu. Nếu giả như thần thiếp lấy một ông quan nào thì bệ hạ có thương thần thiếp không? Khi bệ hạ nghe được tin “trời sét” thần thiếp đã lấy một vị quan nào ở trong triều này thì lúc bấy giờ bệ hạ chỉ có nước thứ nhất là chặt đầu thiếp, thứ hai là giam thiếp ở trong lãnh cung chớ đâu có bao giờ để cho thiếp được tự do như thế này. Nếu là thương thiếp thì bệ hạ đâu có làm cái điều đó. Bởi vì thương người mà người ta muốn như vậy thì mình cứ để cho người ta làm. Như vậy mới gọi là thương. Tại sao bệ hạ nói bệ hạ thương thần thiếp mà khi nghe cái tin như vậy thì bệ hạ không còn thương nữa? Tức là bệ hạ thương bệ hạ. Điều đó chứng minh rõ ràng là bệ hạ thương bệ hạ chứ bệ hạ đâu có thương thần thiếp". 

Đó, qua câu chuyện như vậy chúng ta thấy rõ ràng chúng ta thương mình chứ không thương ai hết. Nghe người vợ mình lấy người khác thì nổi tức ầm ầm lên rồi. Như vậy là mình có thương người không? Có thương vợ mình không? Hay là thương mình? Vì thương mình, nên mình muốn bảo vệ cái của mình. Đó là thương mình, chớ đâu phải là thương người khác. Còn thương người khác là phải giúp cho người đó thực hiện ý của họ.

Đó, ở chỗ trau dồi tâm từ bi để chúng ta thấy được cái thương của chúng ta đối với muôn vật như thế nào. Quý thầy khi chưa trau dồi tâm từ bi, một con bò cạp cắn quý thầy đau, quý thầy giết con bò cạp liền. Như vậy là quý thầy nói tôi từ bi lắm, tôi thương lắm. Tôi thương lắm mà con bò cạp cắn đau quá thì quý thầy giết liền tức khắc. Như vậy đâu phải thương con bò cạp.

Những cái này là những bài học thực tế để chúng ta biết tình thương của chúng ta đang ở vị trí nào để chúng ta trau dồi nó. Một con vật cắn dù chúng ta có chết cũng không nỡ giết nó nữa. Còn chúng ta chưa chết mới đau thôi mà đã vội đã giết chết con vật khác, rồi thấy con vật nào chúng ta cũng sợ hãi mà chúng ta giết hết. Sợ nó cắn mình cho nên giết sạch hết. Vì lòng thương yêu nhỏ mọn đó, ích kỷ đó đối với sự thương yêu mình cho nên trong xã hội nó mới có sự bất an, có sự tranh chấp nhau. Chớ nếu lòng thương yêu của chúng ta rộng lớn đối với mọi người chắc chắn không có sự bất an đó.

Vì vậy bài học đầu tiên trong Phật pháp là Tứ Vô Lượng Tâm. Để làm gì? Để xây dựng con người có đạo đức chân thật, biết thương yêu người. Để xây dựng xã hội tốt đẹp, để cho trong xã hội có trật tự an ninh hẳn hòi. Vì lòng thương yêu đó mà có trật tự chứ không phải chúng ta có kỷ luật thế này thế khác, buộc mọi người thế này thế khác mà lòng thương yêu đó chẳng có thì xã hội chẳng có trật tự. Hình thức bên ngoài thì có trật tự, nhưng bên trong có sự bắt buộc nào đó, chớ sự thật thiếu trật tự. Đời sống càng ngày càng khổ là do chúng ta không tìm được nguyên nhân để giải khổ, cho nên cuộc sống con người rất là khổ. Ở đây đức Phật dạy ta biết pháp nào để trau dồi nó, để xây dựng mình tốt, xã hội tốt, nó mới có được cuộc sống hạnh phúc an vui cho nhau.

Lúc chúng ta bước chân đi, chúng ta đi với lòng từrất rõ ràng thương yêu chúng sanh vô bờ bến, tràn ngập. Nếu khi bước đi ta không còn nhắc tâm nữa mà chúng ta thấy bước chân tự nhiên có sự tràn ngập lòng thương yêu chúng sanh, đó là chúng ta đã viên mãn từ vô lượng tâm. Còn bây giờ chúng ta đang đi mà chúng ta phải thường nhắc, rồi cái tâm lần lần huân lên sự thương yêu đó thì tức là đang trau dồi. Còn khi đi mà chúng ta thấy tự nhiên bước đi của mình, tự nhiên thân tâm của mình nó lách qua lách lại tránh sự đau khổ của cỏ cây thảo mộc cho đến các loài chúng sanh nhỏ nhít dưới bàn chân. Chúng ta không nhắc mà cái tâm thương xót, nó luôn luôn làm cho chúng ta theo dõi từng bước đi để không va chạm, để không làm đau khổ thì đó là chúng ta đã viên mãn lòng từ trong Tứ vô lượng tâm.

Ở đây Thầy nói ra cái kết quả cho chúng ta biết. Khi lòng từ như vậy thì chúng ta thấy tâm bấy giờ phủ trùm lên tất cả các loài vật, thảo mộc cây cỏ đều thương yêu. Một nhánh cây kia các thầy cũng không bao giờ nỡ bẻ, hoặc là ngắt một cái lá, bứt một cái bông nữa. Tình thương yêu đến mức độ không ngờ, đến lúc ta không còn trau dồi mà chúng ta thấy tất cả mọi người, mọi cây cỏ đều có sự sống y như nhau. Đó là viên mãn lòng từ của chúng ta tu tập. Còn nếu bây giờ chúng ta không thực hiện được lòng từ thì thấy cái bông đẹp là ngắt liền. Điều đó chứng minh rằng chúng ta chưa có lòng từ thương yêu. Ở đây Thầy muốn nói như vậy để khi nào chúng ta thực hiện tới đó thì chúng ta mới thấy cái tâm của chúng ta phủ trùm lòng thương yêu trên vạn vật, cho nên Phật nói tâm từ biến mãn khắp mười phương chúng sanh là như vậy. Và từ đó các thầy sẽ thấy nội cái Tứ vô lượng tâm này quý thầy đã giải thoát tâm hồn của mình, không còn có một pháp môn nào hết hoàn toàn vì đã thương thì không còn tham, đã thương thì không còn giận, mà nếu còn tham, còn giận thì làm sao gọi là thương. Đó, như vậy nội trong pháp Tứ vô lượng tâm cũng đem quý thầy đi đến nơi giải thoát, tới Niết bàn vĩnh cửu. Vì có thương yêu mọi người chân thật thì cái ngã không còn. Vì thương yêu cá nhân của mình thì cái ngã mới lớn. Đó là pháp môn vi diệu nhất mà chúng ta từng trau dồi th́ì chúng ta có sự giải thoát hoàn toàn. Niết bàn trước mặt chúng ta, đâu phải đợi chúng ta nhập Tứ thiền, mới nhờ Tam minh mà diệt lậu hoặc mới là Niết bàn. Mà chính ngay lòng thương yêu chúng ta cũng đã là Niết bàn.

Mỗi pháp môn của Phật đều có những vi diệu tuyệt vời của nó, nhưng vì chúng ta chưa biết, chưa trau dồi. Phỏng chừng một năm mà quý thầy mỗi khi đi đứng nằm ngồi đều trau luyện tâm từ thì chắc chắn sau một năm đó quý thầy thực hiện được lòng từ bi hỷ xả của quý thầy, thì ngay cuộc sống của quý thầy đã giải thoát hoàn toàn. Vì thế mà quý thầy thấy trong giới luật của Phật cấm không cho chúng ta trồng cây cỏ này kia hoặc làm cái nọ cái kia, tất các nghề nghiệp đều đình chỉ hết. Người tu sĩ chỉ còn biết đi khất thực ăn mà thôi, đi xin người khác thôi, không làm cái gì hết, bởi vì làm là động đến chúng sanh; làm là làm đau khổ chúng sanh. Không phải chúng ta ích kỷ nhưng mà chúng ta thực hiện đúng lòng thương yêu của chúng ta chơn thật để cho tình thương đó phủ trùm trên muôn loài.

Vì thế bước vào đạo Phật chúng ta thấy đức Phật cấm người tu sĩ làm tất cả các nghề, không được làm một nghề gì hết. Vì còn làm một nghề nào thì cái nghề đó sẽ đem đến sự đau khổ cho chúng sanh. Muốn được vậy thì chúng ta phải từ ngày này qua ngày khác trau dồi tâm từ trong 4 oai nghi đi đứng nằm ngồi của thân chúng ta.

Bây giờ về cái phần tay. Cái tay của chúng ta phải cầm, nắm, bắt. Cái tay của chúng ta cũng có hành động của nó. Nếu nó không có hành động, nó cứ cứng đờ thì chúng ta không nói tới nó, bởi vì tu trong hành động, trau dồi lòng từ của chúng ta trong hành động.

Khi tay cầm, nắm, bắt lấy tất cả mọi vật dụng cần thiết cho đời sống tu hành cũng như cơm ăn, áo mặc hằng ngày, ta thường trau dồi tâm bằng pháp hướng như lý tác ý, nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nghĩa là luôn luôn lúc nào khi chúng ta cầm một vật gì của người khác cho mình, khi ta cầm một cái gậy hay cầm vật dụng cần thiết cho đời sống của mình thì mình phải nhắc, mình phải hướng tâm nhắc nó như cái lý giải thoát của đạo để tâm từ thương yêu của mình, từ đó phát triển và nó thấm nhuần cũng từ nơi đó.

Đây, Thầy đem ví dụ câu hướng tâm, như cái lý chân thật đó để chúng ta nhắc tâm mình khi tay nắm một vật gì của người khác cho hoặc là cầm một vật gì thì chúng ta phải nhắc: 

“Tất cả những vật dụng cần thiết như cơm ăn, áo mặc, thuốc thang là của làm bằng mồ hôi, nước mắt của mọi người cực nhọc mới có cho ta. Ta phải biết ơn và thương yêu họ và thương yêu tất cả mọi người, dù người đó có hay không có cúng dường cho ta với lòng chơn thật không bao giờ đánh trả lại, mắng chửi họ, không bao giờ nặng lời to tiếng với họ. Vì đánh mắng chửi rủa nặng lời với họ là ta đã không biết thương yêu họ, là ta đã làm cho họ khổ sở. Ta phải nói lời nhẹ nhàng an ủi để làm cho mọi người vui mà không buồn khổ nữa.”

Đó là câu để chúng ta hướng tâm, chúng ta thường nhắc đi nhắc lại như vậy cho nó thấm nhuần. Vì vậy mà mỗi lần chúng ta nhận vật gì cúng dường, như quý thầy nhận một cuốn tập của ai cúng dường bằng mồ hôi nước mắt của họ, thì chúng ta tâm niệm, lặng một chút xíu để chúng ta hướng tâm từ, đó là chúng ta đã trau dồi tâm từ của chúng ta đó, lòng thương yêu của chúng ta đó. Do đó khi có người khác mắng chửi thì chúng ta lặng tâm trên câu hướng này làm cho chúng ta không còn giận hờn người khác nữa, không còn đau khổ nữa. Tâm chúng ta xả hoàn toàn.

Đó, trên bước đường tu tập nếu chúng ta biết áp dụng đúng cách thì ngay tức khắc chúng ta có những pháp hướng kèm theo khi chúng ta chưa thuần thục. Còn khi chúng ta đã thuần thục rồi thì chắc chắn là quý thầy sẽ thênh thang ở trên tâm hồn vô ngại, không còn một chướng ngại nào làm cho tâm của quý vị chướng ngại nữa.

Khi cầm, nắm, bắt lấy ta cũng nhẹ nhàng từ tốn, lỡ trên thân đồ vật có những chúng sinh nhỏ bé, quý vị mạnh tay sẽ làm cho chúng đau khổ và mạng vong. Đó, chúng ta lưu ý về cái phần khi cầm vật, như bây giờ có người đưa cho mình cuốn tập, mình hai tay cầm, mình cũng quan sát coi ở trên cuốn tập này có con kiến hoặc con vật gì không, để mình khỏi vô tình nắm nó dẹp lép, nó chết đi. Đó là những điều chúng ta tập luyện. Mà tập luyện như vậy là tập luyện tỉnh thức, trong khi đó lại tập luyện được lòng từ, thì cái này là cái rất quý, vừa tập được cái này mà nó đạt được cái kia. Nhưng ở đây chúng ta không được gọi nó là Chánh niệm tỉnh thức định. Ở đây không được gọi nó như vậy, đây chỉ là tập tỉnh thức trong hành động để trau dồi tâm từ bi hỉ xả của mình, trau dồi Tứ vô lượng tâm mà thôi.

Khi muốn trau dồi tâm từ các hành động của thân nơi tay thì quý vị phải siêng năng, cần mẫn nhắc đi nhắc lại nhiều lần để tâm tỉnh giác nơi mọi hành động của tay mình, tránh sự vô ý làm đau khổ chúng sanh. Có tinh tấn, có siêng năng tu tập lòng từ bằng hành động của thân tỉnh giác, nhắc nhở lòng chúng ta thương yêu chúng sanh vô bờ bến, từ đó ta mới thấy thương yêu chúng sanh như thật.

Ở đây Thầy xin giải thích thêm phần này để quý thầy thấy lòng từ đối với chúng sanh có nghĩa sai biệt chỗ này, chỗ kia. Bởi vì nếu không hiểu thêm phần này thì chúng ta không biết lòng thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh như thế nào. Một chúng sanh đang bị tai nạn, và một chúng sanh đang mạnh giỏi bình thường thì lòng từ vô lượng này nó sẽ đối với chúng sanh nào? Ở đây Thầy giải thích thêm để cho quý thầy thấy lòng từ là thương yêu chúng sanh chưa có tai nạn, chưa có bệnh tật, chưa có khổ đau. Lòng từ thì thương yêu chúng sanh đang mạnh khỏe, cho nên lòng từ nó rộng lớn lắm, nó không có cái đối tượng giãy dụa đau đớn, vì vậy mà lòng từ là lòng thương người trong khi mạnh giỏi, thương chúng sanh trong khi đang mạnh. 

Còn khi thấy một cây cỏ úa hay một cái bông nó héo mà chúng ta khởi thương yêu nó, thì cái thương yêu đó gọi là lòng bi, chớ không phải lòng từ. Phân biệt được như vậy chúng ta thấy, chúng ta tu lòng từ là chúng ta thương chúng sanh đang ở trong mạnh khỏe, chứ không phải là chúng sanhtrong sự đau ốm, hoặc tai nạn hay chết chóc rồi chúng ta mới thương yêu chúng sanh. Cho nên lòng từ khác với lòng bi. Phân biệt được như vậy thì chúng ta biết bây giờ chúng ta đi đứng thì những con vật dưới chân ta là con vật mạnh giỏi, chứ không phải con vật đau đớn. Cho nên hành động của chúng ta hằng ngày trong khi đi đứng đều tránh, không làm đau khổ chúng sanh, để cho chúng được mạnh khỏe, an vui, thảnh thơi, vui sướng ở trong đời sống của chúng, hòa mình ở trong cuộc sống, trong không gian và thời gian này, hành động đó là lòng từ. Đó là lòng từ của chúng ta thực hiện đối với con người, con vật đang vui tươi, đang mạnh khỏe. Tức là học tới cái lòng hỷ thì chúng ta mới thấy được cái hỷ hòa mình ở trong sự an vui đó để cho tâm hồn của chúng ta phủ trùm trên sự sống của muôn vật với lòng thương yêu khắp cùng với nhau.

Còn lòng bi thì nó khác, khi chúng sanh hoặc con người gặp tai nạn nào đó, thí dụ người ta bị xe đụng, người ta bị bệnh khổ, người ta lâm tai nạn... thì ngay cái đối tượng đau khổ đó chúng ta thương yêu, thì sự thương yêu đó bắt buộc chúng ta phải thực hành bằng hành động. Người bị tai nạn thì mình tới giúp đỡ họ liền, người bị bệnh khổ thì mình tìm thang thuốc cho họ uống, người sợ hãi không dám qua đường thì mình dắt họ qua đường... thì đó là cái lòng bi. Mình đi trên xe buýt thấy một bà già bước lên mà không có chỗ ngồi, mình đứng dậy nhường cho bà già đó ngồi, đó là lòng bi. Vì bà già đang yếu đuối, bà không thể nào gượng khi xe dừng hoặc là xe chạy. Cho nên chúng ta nhường chỗ ngồi như vậy là lòng bi chứ không phải lòng từ. Phân biệt được vậy chúng ta mới biết từ như thế nào, bi như thế nào, để thực hiện cho đúng cách của nó.

Từ thuộc về nhân, nghĩa là cái nhân mình chuẩn bị cho chúng sanh đừng có đau khổ, mà bi là cái quả; bởi vì chúng sanh gặp những tai họa nhức nhối thì bi, lòng bi của chúng ta đối với chúng sanh là đối trong cái quả. Mà lòng từ đối với nhân là chưa có gì hết, chúng ta chuẩn bị cho đừng có xảy ra tai nạn, lòng từ là cái nhân. Cho nên lòng từ biến mãn khắp mười phương chúng sanh, hòa mình trong cuộc sống vạn vật từ cỏ cây đến cầm thú đều được an lành. Không có con vật này giết con vật kia, không có giẫm đạp lên nhau, chà xéo lên nhau trong cuộc sống; không có tham dục, không có ích kỷ nhỏ mọn, không có cá nhân chấp chặt ... mà chỉ có một quyền sống bình đẳng như nhau. Người này thương yêu người nọ, người nọ thương yêu người kia, sống vì người, vì tất cả chúng sanh nên gọi là lòng từ. Lòng từ phải được trau dồi, thấm nhuần, lưu xuất từ tận đáy lòng thương yêu chân thật. Nếu không được trau dồi thì lòng từ kia chỉ là một hình thức suông. Vì thế cuộc sống của muôn loài đang bị đe dọa trên những danh từ hoa mỹ “từ bi, bác ái”. Bằng chứng là hiện giờ chúng ta chỉ thấy danh từ gọi là từ bi, bác ái, chỉ là danh từ thôi, chưa thực hiện đúng từ bi, bác ái giữa con người với conngười, nói chi từ bi, bác ái con người đối với con vật, chưa có cái từ bi, bác ái đó. Người ta dùng từ bi, bác ái đểbịp đời chớ chưa hẳn là người ta đã thương đời thật. Cho nên ở đây chúng ta phải lật trái điều này để chúng ta thực hiện tâm mình cho chân thật, chứ không khéo mình cũng bị những danh từ che đậy này mà tưởng rằng mình từ bi, bác ái. Thật ra mình chưa có trau dồi nó thì mình chưa hẳn đã từ bi, bác ái được, vì chúng ta lầm chấp cái tâm này, cái thân này là ngã thì từ bi kia không bao giờ có được. Mà muốn có được từ bi thì chúng ta phải trau dồi nó. Và khi trau dồi nó thì ngã chúng ta lần lần tiêu mòn, chỉ còn biết người mà không thấy có mình, nhưng trong đó có mình. Có mình mà như không có mình.

Đây là phần vừa là lý thuyết mà cũng vừa thực hành. Mà thực hành thì quý thầy phải nhớ kỹ những câu pháp hướng là những điều quan trọng nhất. Còn lý thuyết nói mênh mông để nghe cho nó thấu rõ được cái lý chứ sự thật ra cái lý thuyết nó chẳng ăn nhằm gì hết. Nghe nó lắm rối tai, làm rối đầu. Mà chính những câu pháp hướng, những câu ngắn ngủi mà Thầy vừa nói là cái mấu chốt để quý thầy trau dồi bằng sự tỉnh thức của mình trong mỗi hành động thân của quý thầy. Đó là những điều quan trọng nhất của cuộc đời tu hành của người tu sĩ. Còn cái mà Thầy nói lòng vòng như thế này, chỉ nói để cho nghe hiểu, cho vui chơi. Nó cũng như bài ca để ca hát cho quý vị nghe cho vui vậy, chứ không có nghĩa lý gì hết. Cho nên khi nghe xong rồi thì những danh từ mà Thầy đã ca ở đây, quý vị dẹp hết đi, chỉ còn các câu pháp hướng, đó là ngọn đuốc thắp đường để cho quý thầy trau dồi sáng suốt thân tâm của mình. Cho nên tu thì không có nhiều mà nói thì rất nhiều. Vì nhiều khi quý thầy không hiểu, phải nói ra cho hết, cho rõ, cho hiểu. Hiểu rồi thì áp dụng không có bao nhiêu.

Khi cầm một vật gì ta phải nhẹ nhàng nhắc nhở, Thầy nhắc nhở lại câu pháp hướng hồi nãy: 

“Trên mọi vật đều có chúng sanh đang ở trên đó. Ta hãy cầm nhẹ nhàng để tránh sự chết chóc và đau khổ của chúng sanh.”

Nắm, bắt, lấy cũng vậy, đều phải tập ý tứ nhẹ nhàng khiến cho người tu sĩ càng ngày càng có oai nghi tế hạnh hơn, không còn có những hành động thô tháo. 

Đó, chúng ta tu tập, trau dồi tâm từ nó có lợi ích cho chúng ta là tập luyện các oai nghi tế hạnh của mình. Những hành động nhẹ nhàng làm cho chúng ta trở thành những vị tu sĩ xứng đáng là đệ tử của Phật. Nương vào mỗi hành động tay hoặc chân của ta đều hướng tâm nhắc tâm ta thương yêu tất cả muôn loài, từ đó tâm ta mới có sự thấm nhuần sâu vào tận xương tủy của chúng ta; từ đó biến mãn ra hành động nơi thân mình đầy lòng thương yêu chân thật. 

Ở đây, Thầy xin nhắc lại, quý thầy phải hiểu: đừng lầm tưởng rằng chúng ta tu như vậy là tu Chánh niệm tỉnh giác định, đây chỉ là tu trau dồi Tứ vô lượng tâm bằng hành động thân của mình qua pháp hướng Như lý tác ý của Phật. Nhờ có Như lý tác ý, tâm ta thấm nhuần lòng từ chân thật. Chính lòng từ chân thật này xuất hiện nơi tâm ta, ta mới tu hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng đạt kết quả tốt. Quý thầy thấy khi chúng ta trau dồi lòng từ mà chúng ta đạt được thì nhờ tâm từ xuất hiện chúng ta mới nhẫn nhục được. Còn không, chúng ta chỉ dùng danh từ nhẫn nhục để mà chơi, hoặc để nén tâm mà thôi, chúng ta nén chịu, chứ tâm chúng ta bực tức ở trong đó. Đó là chúng ta chưa có tu hạnh nhẫn nhục, nhưng danh từ nhẫn nhục thì ai ai cũng biết, danh từ tùy thuận thì ai ai cũng rõ. Nhưng khi chúng ta chưa trau dồi lòng từ thì nhẫn nhục tùy thuận chỉ là danh từ suông đối với chúng ta mà thôi. 

Khi có từ tâm, một con vật chúng ta còn thương thay huống chi là một con người đang chửi mắng ta và làm khổ ta. Từ tâm rất quan trọng vì đứng trước mọi vật đang mạnh khỏe, đang hung hăng dữ tợn và có thể giết ta, hại ta nhưng lòng từ vẫn ban rãi đến chúng, thương yêu chúng. Người có lòng từ không bao giờ biết sợ hãi trước mọi hiểm nguy. 

Thầy nhắc lại phần này cho rõ: Một khi chúng ta có lòng từ rồi thì tâm của chúng ta không còn sợ hãi con vật nào hết, vì mọi sinh vật quanh ta cũng là những con vật ham sống và sợ chết, nó thấy ta nó cũng sợ. Một con beo, một con cọp, một con gấu, một con voi, con vật nào nó thấy con người cũng sợ, chứ không phải là nó không sợ. Do cái sợ hãi đó nên nó nhìn chúng ta chăm chăm. Chúng ta cũng sợ nó nên chúng ta nhìn nó chăm chăm. Nhưng trong đôi mắt chúng ta nhìn chăm chăm vào con vật đó có sự hung dữ trong đó. Còn người có lòng từ họ không sợ hãi cho nên họ không sợ con vật đó giết họ. Cho nên họ ngồi, đôi mắt họ hiền từ nhìn xuống, họ không bao giờ sợ hãi. Và khi con vật thấy đôi mắt nhìn xuống thì nó biết đó là con vật lành, do vậy nó không bao giờ tấn công giết hại người có lòng từ đâu. Cho nên những người tu sĩ thường ẩn bóng trong rừng núi, họ ở trong những chỗ hiểm nguy, có thú dữ mà họ chẳng hề sợ hãi. Do họ đã tu tập có được lòng từ chớ không phải có thiền định. Bởi vì lòng từ của họ giúp cho họ chẳng hề sợ hãi trước sự nguy hiểm của thân họ. Với lòng từ thì không thể nào giết hại một con vật nào dù cho con vật đó có hại cho họ. Họ thà chịu chết, chứ họ không bao giờ làm đau khổ và giết hại con vật khác. Do vì lòng từ đó mà họ chẳng sợ nguy hiểm, chẳng ngại những gian lao khó khăn, nhờ vậy mà họ thực hiện con đường ẩn bóng, hoặc là con đường tu tập để đạt được nguyện vọng giải thoát cao hơn. Do đó, họ chẳng sợ hiểm nguy rừng sâu nước độc, họ thường ở những nơi thanh vắng để tập luyện những thiền định. 

Quý thầy thấy rằng hiện giờ chúng ta chưa có lòng từ nên bước ra một bước là chúng ta sợ hãi nơm nớp, do lòng từ của chúng ta chưa có. Khi chúng ta có lòng từ, chúng ta ngồi trên xe thản nhiên không lo trộm cắp móc túi. Tại sao vậy? Nếu quả chăng có những người trộm cắp móc túi thì đó là chúng ta ban rải cho chúng những cái mà chúng đã không có. Cho nên chúng ta vẫn an nhiên tự tại. Nhưng đối với một người tu sĩ thì làm gì có vật gì đâu mà sợ. Cho nên chúng ta vẫn an nhiên ngồi trên xe mà không sợ móc túi. Người tu sĩ tiền không có, vật quý không có, chỉ có cái bộ y áo trong mình với cái bát sành thì ăn trộm ăn cắp nó để làm gì, cho nên chúng ta vẫn an nhiên vui vẻ. Do vì vậy mà tu tập lòng từ thì phải sống một đời sống phạm hạnh của người tu sĩ của đạo Phật thì lòng từ mới thể hiện dễ dàng. Còn nếu có vật gì mà làm chúng ta nơm nớp lo sợ để giữ gìn nó, tức là lòng từ chúng ta khó thực hiện được. 

Đến cái cuối cùng này quý thầy thấy trước tiên ta áp dụng phương pháp tu trau dồi lòng từ nghe thì nó dễ dàng. Nhưng đến mức cuối cùng, để kết luận để thấy rằng trau dồi lòng từ không đơn giản vì phải sống đời sống đúng hạnh của người tu sĩ thì lòng từ mới thực hiện trọn vẹn. Còn nếu không thì chỉ mới đạt được phân nửa mà thôi. Như vậy chúng ta đạt được phân nửa của lòng từ thì chúng ta cũng thấy được cái cõi đời của chúng ta an vui hạnh phúc vô cùng. Còn đạt được viên mãn lòng từ thì cả một vấn đề tu tập. Cuộc sống của chúng ta phải xa lìa những vật chất thế gian, xa lìa những cái trói buộc, chúng ta phải vứt bỏ hết thì lòng từ kia mới thực hiện được, vì lòng từ kia thực hiện được tức là tâm không sợ hãi. Người chưa có lòng từ thường hay sợ hãi. Thấy một con bọ cạp, một con rắn dữ, một con beo, một con gấu, một con hùm, v.v... nếu con vật lớn thì họ sợ hãi, cao bay xa chạy; còn con vật nhỏ bé thì họ đập, giết không tiếc thương. Trái lại lòng từ không cho phép ta có những hành động độc ác này. Lòng từ không cho phép chúng ta cao bay xa chạy trước những con vật hung dữ lớn hơn chúng ta. Lòng từ không cho phép chúng ta có tâm tàn nhẫn giết hại những con vật nhỏ bé. Người có tâm từ không hề sợ hãi thú dữ và còn thương yêu chúng nữa. Cho nên chúng ta nghe các vị tu ở trong rừng núi, nhiều khi cọp nó ngồi gần bên mà nó hầu hạ các vị. Tại sao vậy? Tại vì lòng từ của các vị ban rải, cho nên con vật đó thông cảm, nó giao cảm được với tình thương của con người. Còn chúng ta vô rừng mà gặp cọp beo thì chắc chắn là chúng ta bị nó xé xác, tại vì tâm của chúng ta, cái từ trường của chúng ta không có từ, cho nên con vật đánh hơi được sự hung dữ của chúng ta. Tâm chúng ta dữ tợn, vì vậy nó phải giết những con vật dữ để bảo vệ sự sống của nó. Cũng như bây giờ chúng ta thấy một con bọ cạp nhưng chúng ta chưa giao cảm cái từ trường của nó. Nó chỉ là một con vật, nó có một chất độc để bảo vệ sự sống của nó, chớ nó đâu phải dùng chất độc đó để đi giết chúng ta. Nhưng lòng từ chúng ta không có cho nên chúng ta lại đập giết nó, chớ nó không đem chất độc để giết chúng ta. Nhiều khi một con vật ở trên mái nhà rớt xuống trên mình chúng ta, nó đâu có cắn chúng ta. Nhưng khi chúng ta vô tình lấy tay để nhẹ lên trên nó, vì vô tình chúng ta không biết có nó. Nhưng vì nó đau quá, bắt buộc nó phải cắn chúng ta. Do đó chúng ta bị cắn là vì nó bảo vệ sự sống của nó chứ không phải nó đi tìm chúng ta mà cắn. 

Thường thường Thầy ngủ bò cạp hay rớt ở trên mình. Người tu hành trau dồi tâm từ kỹ lưỡng thì khi cựa mình, phải ý tứ hẳn hòi, hành động nhẹ nhàng thì làm sao bò cạp cắn. Còn quý thầy cựa mình thì lăn cái ù, tay chân thì quơ, vì vậy mà đụng nó đau, cho nên nó cắn quý thầy, rồi đâm ra giết nó, thì rất là tội. Hôm nay Thầy nói như vậy để biết rằng sự trau dồi lòng từ là hành động nhẹ nhàng của chúng ta. Chúng ta tránh gây sự đau khổ cho chúng sanh, hãy nên bảo vệ mạng sống của chúng.