Thứ Ba, 19 tháng 11, 2024

Pháp Tu Cư Sĩ - Tứ Vô Lượng Tâm - XẢ TÂM NGỦ

 5.- XẢ TÂM NGỦ

Bây giờ chúng ta tiếp tục xả cái ngủ, xả cái ngủ là xả cái cuối cùng. Năm thứ dục lạc thì cái ngủ là cái cuối cùng. 

Ngủ là một thứ dục lạc trong năm thứ dục lạc khiến cho con người thích thú ham mê ngủ. Ngủ là một trạng thái ngu si mê muội, ngủ là một trạng thái bần thần dã dợt, lười biếng. Cho nên những người lười biếng là những người ham ngủ. 

Ngủ có nhiều cấp độ. Ở đây quý thầy thấy trong trạng thái ngủ làm cho con người si mê lắm. Do đó mà đức Phật gọi là thùy miên hay vô ký. Đó là danh từ để chỉ cho người lười biếng, người hay ngủ, người ngu si, người không có thông minh. Cho nên gọi là hôn trầm thùy miên. Phải biết ngủ có nhiều cấp độ, không phải nó có một cái hôn trầm thùy miên không thì nó chưa đủ. Vì vậy Thầy muốn chỉ cho quý thầy thấy năm trạng thái đi vào trong cái gọi là ngu si. 

Đó là:

- Thứ nhất là hôn trầm,
- Thứ hai là thùy miên,
- Thứ ba là hôn tịch,
- Thứ tư là vô ký,
- Thứ năm là ngoan không.

Năm trạng thái này là năm trạng thái mà người tu thiền thường gặp. Người tu thiền mà ngồi lâu thì lúc nào cũng dễ bị rơi vào một trong năm trạng thái này. 

Hôn trầm thì như thế nào? Hôn trầm là người ngồi một lúc thì lại vô ký đi, quên mất đi rồi gục xuống một cái, rồi mới ngước đầu lên. Trạng thái gục xuống như vậy đó gọi là hôn trầm.

Thùy miên là như thế nào? Thùy miên là người đó ngồi cúi cái đầu xuống hoặc quẹo cái cổ qua một bên, rồi bị ngủ quên mất đi, ngủ say ở trong giấc ngủ. Đó là thùy miên. Thùy là ngủ, miên là tiếp tục miên man, miên mật ở trong đó, ở trong giấc ngủ quên đi, ở trong cái không biết đó thì gọi là thùy miên. 

Thứ ba là hôn tịch. Hôn tịch là một lúc thì mê, một lúc thì tỉnh tỉnh, mơ mơ màng màng đó. Những người ngủ mà không say mà cũng không gục đó, lúc thì tỉnh lúc thì mê. Cũng như quý thầy tu về hơi thở. Lúc thì biết hơi thở, lúc thì không biết hơi thở. Đó gọi là trạng thái hôn tịch. Nó cũng thuộc cái loại ngủ đó. Khi vừa ngủ vừa mê vừa tỉnh thì cái đó gọi là hôn tịch.

Còn thứ tư thì thuộc loại vô ký. Vô ký là chợt quên đi. Thứ nhất là nó quên cái tâm cho nên lúc bây giờ vừa chợt quên thì nó mất cái tỉnh. Nó mất cái tỉnh thì niệm vọng tưởng xen vô liền. Cái đó gọi là vô ký. Quên rồi nó mới có niệm khác xen vô. Hoặc là nó quên, nếu cái thân nó quên đi thì khi có tiếng động hoặc cái gì đó làm nó giựt mình, hoặc là nó vừa quên vừa giựt mình. Thì đó, cái thân cũng vô ký. 

Khi vô ký kéo dài thì vô ký trở thành trạng thái gọi là ngoan không. Nó mới chợt vừa quên thì đó là vô ký. Mà nó kéo dài một thời gian dài từ nửa tiếng hai, ba tiếng mà không ngơ, nó không giống như ngủ, không giống như thùy miên mà nó không ngơở trong đó thì đó gọi là ngoan không. 

Cho nên năm cái loại ngủ này gọi là ngu si. Người nào rơi vào trong trạng thái đó thì không còn thông minh nữa, mà càng ngày càng đi tới ngu si. Nghĩa là người ngồi thiền nhập định mà vào cái ngoan không này thì lâu ngày họ phát ra cái trí tuệ của tưởng. Họ tưởng giải. Họ tưởng là đúng nhưng sự thật họ nêu những cái kiến giải, tưởng giải đó ra làm cho lầm lạc tất cả những lối đi, làm cho phá giới luật, làm cho những khuôn phép của Phật mất đi để cho họ được tự tại ở trong cuộc sống, chạy theo ngũ dục lạc. Cho nên người rơi vào ngoan không này thường hay phát triển pháp tưởng. Vì thế mà người sau này dễ bị lầm lạc, nghĩ cái pháp đó là đúng, cho nên từ đó làm lệch con đường tu theo đạo Phật. Làm tất cả những người tu sau này mất lối, không còn biết đường đi nữa. Đó là những cái mà người tu thiền sai bị rơi vào ngoan không tạo thành những pháp tưởng. Vì vậy mà đời mất lối đi, mất đường tu giải thoát. Cho nên từ chỗ ngu si này nó đưa đi đến cái chỗ ngu si khác mà tưởng rằng mình đã có trí tuệ. Đó là cái sai rất lớn trong sự tu tập theo đạo giải thoát. Tất cả những loại ngủ này gọi chung là si thiền hay mê định. 

Nói chung những loại si này, người mới vô tu không biết. Cho nên đức Phật dạy chúng ta vào bắt đầu tu thì tu Chánh niệm tỉnh thức làm cho cái sức tỉnh của chúng ta mạnh. Cho nên đi kinh hành nhiều đểtỉnh thức trên hành động, tu trên thân quán ngoại thân, trên cái hành tướng của nó để tu tập, để làm cho có sức tỉnh. Vì vậy mà nó không rơi vào hôn trầm thùy miên, hôn tịch, vô ký, ngoan không. Còn nếu chúng ta không tu tập Chánh niệm tỉnh thức này mà vội vào khép chân ngồi kiết già, rồi đặt hơi thở, hoặc đề mục nào đó rồi chúng ta ngồi, mà ngồi quá lâu thì cơ thể bị mệt mỏi, do đó nó thiếp dần đi ở trong những trạng thái ngủ. Trạng thái si mê này tạo ra những cảnh giới, tạo ra những trí tuệ không đúng cách, làm cho lệch lạc sự tư duy, mất trí tuệ. Bởi vì nó ngu si, đó là si định nên nó làm cho chúng ta ngu si mà cứ ngỡ tưởng mình là trí tuệ. Từ đó mình dẫn mình đi trên con đường tu hành lạc nẻo mà không hay biết. Cho nên tất cả cái ngủ này đều gọi chung là si thiền, mê định. Kẻ tu tà thiền, định tưởng thường rơi vào trạng thái này. Nghĩa là người tu thiền thuộc tà thiền, định tưởng thì họ thường rơi vào trạng thái của 5 loại ngủ này, không thể nào khác được. Quý thầy cứ nghiệm qua sự tu tập của quý thầy từ lâu đến giờ mà quý thầy không được hướng dẫn tu ở trong Chánh niệm tỉnh thức kỹ lưỡng, bây giờ quý thầy ngồi lâu thì cũng rơi vào trong năm cái loại ngủ ngu si này, trong năm cái thứ mê muội này, chứ không thoát khỏi nanh vuốt của năm loại ngu si này. 

Có dịp nói về thiền Thầy sẽ giảng tất cả những loại si thiền này để cho quý thầy rõ hơn. Bây giờ Thầy dạy cách xả tâm vô lượng ngủ. Bởi vậy cho nên năm cái loại ngủ này nó biến ra vô lượng cái ngu si tức là vô lượng cái ngủ của chúng ta, si mê của chúng ta. Bây giờ Thầy sẽ dạy quý thầy áp dụng hành pháp nào để đạt cho được xả vô lượng tâm ngủ này cho chúng ta được tỉnh táo, được sáng suốt, được thông minh để có trí tuệ dẫn lối cho chúng ta đi đến con đường giải thoát chân chánh. 

Khi một người tu hành đã bị năm thứ si thiền này thì phải vận dụng hết sức để phá nó. Gặp nó rồi thì phải hết sức vận dụng phá nó chứ không được theo nó. Hễ nghe mỏi mệt là đi ngủ thì không được. Hoặc là ngồi thiền mà nghe an lạc rồi thiếp dần ở trong đó, rơi vô trạng thái ngoan không cũng không phải tốt lắm đâu. Phải phá nó đi cho được, phải tìm mọi cách không được cho nó nhập vào tâm, vào thân của chúng ta. 

Vì thế người cư sĩ mới trau dồi tâm mình thì ngay đây phải trau dồi tâm xả vô lượng ngủ. Vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau. Bây giờ Thầy kể ra một số trạng thái ngủ để cho quý thầy biết. Chứ nếu quý thầy cứ nói năm cái loại này rồi không biết nó xảy ra như thế nào để chúng ta thấy được năm cái trạng thái ngủ. Bởi vì ở đây Thầy nói nó có vô lượng cái ngủ chứ không có phải có một cái ngủ, vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau.

- Khi đi xe, tàu, ghe đi biển bị sóng như say say ngủ. Ai đã từng đi tàu, đi xe, đi ghe đi biển rồi thì biết, nó gật gà gật gù, nó làm chúng ta mệt nhọc cơ thể, đó là bị say sóng, say gió. Do đó nó làm chúng ta ngây ngây như ngủ mà không ngủ. Đó là những trạng thái làm cho chúng ta mê mà không tỉnh. 

- Bị cảm gió, thân lừ đừ nóng lạnh.Khi chúng ta bị cảm gió hoặc bị cảm mưa thì thân của chúng ta nóng lạnh, nó cũng làm chúng ta buồn ngủ. Tất cả những bệnh khác đều có trạng thái không tỉnh táo. Nghĩa là mọi bệnh tật nhiều khi nó làm cho cơ thể chúng ta uể oải khó chịu, do đó chúng ta lừ đừ. Đó là những trạng thái ngủ, trạng thái cơ thể lờ đờ. 

- Tu sai cũng buồn ngủ. Nghĩa là chúng ta tu sai, tu không đúng, nó cũng buồn ngủ nữa. Như trong pháp sổ tức thì sổ tức đến một mức nào đó thôi,nếu sổ tức quá mức của nó thì cũng sanh ra buồn ngủ nữa, chứ không phải quý vị sổ tức là nó tỉnh đâu. Sổ tức mà quá sức chịu đựng của tâm trí thì sinh ra buồn ngủ. Ví dụ sức của chúng ta sổ tức đến một ngàn hơi thở, mà chúng ta tăng lên chừng một ngàn rưỡi, hay hai ngàn hơi thở thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ bị buồn ngủ. Chúng ta không biết cái buồn ngủ này ở đâu mà ra. Buồn ngủ đó là vì chúng ta đếm quá sức, sự tập trung ở trong số đếm hơi thở từ một ngàn, tăng thành hai ngàn hơi thở như vậy quá sức thì nó làm cho quý vị bị buồn ngủ. Rồi từ cái buồn ngủ đó quý vị không còn nhớ đếm hơi thở nữa.

- Trụ tâm không đúng chỗ cũng sinh buồn ngủ. Phải trụ tâm đúng chỗ của nó thì mới tỉnh, còn không đúng chỗ của nó thì sẽ sanh ra buồn ngủ. 

- Làm quá sức cũng buồn ngủ. 

- Sống cô đơn một mình cũng buồn ngủ. 

- Lười biếng cũng buồn ngủ. 

- Rượu chè, bài bạc, trác táng cũng buồn ngủ. 

- Trai gái dục lạc quá độ cũng làm buồn ngủ, v.v... 

Đó là những cái có thể đưa chúng ta đến vô lượng buồn ngủ, vô lượng ngủ.

Vậy muốn xả tâm vô lượng ngủ này phải làm sao? Thì chúng ta phải hiểu được những trạng thái ngủ đó là thuộc trạng thái ngủ nào để chúng ta đối trị cho nó hết. Như bây giờ mình bị bệnh sinh ra ngủ thì mình phải tìm thuốc thang uống cho hết bệnh. Nếu bị bệnh mà mình lại đi kinh hành thì làm sao mà đi hết ngủ nổi. Đi riết một hơi chắc là vô nằm rồi ngủ luôn chớ không bao giờ tỉnh lại được nữa. Đó là do trị ngủ sai, trị ngủ phải trị cho đúng cách, không có thể trị cái ngủ này bằng phương pháp khác mà phải tùy theo trường hợp ngủđể trị thì nó mới hết. Phải tùy theo những trạng thái cơ thể, nếu bệnh tật thì trị bằng thuốc thang, mệt nhọc thì nghỉ ngơi, mệt nhọc thì không được làm việc quá sức lực của cơ thể cũng như tinh thần, do trác táng thì dứt bỏ những trò chơi trác táng,... 

Ở đây Thầy dạy rất rõ ràng và cụ thể. Phải xét nguyên nhân cái buồn ngủ là do mệt nhọc trong cơ thể chúng ta ở chỗ nào để rồi tùy nguyên nhân đó mà trị bệnh buồn ngủ này thì nó sẽ tỉnh táo và sáng suốt. Chứ nếu cứ làm quá sức hoài, vừa mệt nhọc tinh thần, vừa mệt nhọc cơ thể của mình, thì người đó cứ lừ đừ buồn ngủ hoài, làm sao mà họ thông minh được. Họ thông minh nhưng vì làm quá sức thì làm sao họ còn thông minh nữa. Đầu óc tối ngày cứ suy tư hoài, làm sao mà thông minh, ít ra họ cũng phải nghỉ ngơi. Như vậy, muốn có thông minh thì đừng có làm quá sức. Đó là những cái để đối trị lại buồn ngủ, mất thông minh, để làm cho chúng ta càng ngày càng có trí tuệ, có ý thức rất là thông minh, chính xác trong công việc làm, trong sự tu tập.

Ở đây người muốn xả tâm vô lượng ngủ này phải hết sức thận trọng trong việc trau dồi tâm này. Nghĩa là phải hết sức thận trọng, phải rõ ràng từng nguyên nhân của sự buồn ngủ để trau dồi tâm của chúng ta, chứ không phải muốn trau dồi xả tâm vô lượng ngủ mà đặt nó ở chỗ sai thì không thể được. Như vậy:

1. Phải biết buồn ngủ trong thân mình là loại nào. Đó, thứ nhất mình phải xét ở trong thân mình, nguyên nhân của buồn ngủ thuộc loại nào.

2. Tùy theo bệnh trạng buồn ngủ mà dùng thuốc thang, cách thức trị bệnh.

3. Cương quyết, mạnh mẽ dứt bỏ những trò chơi không lành mạnh. Như uống rượu, hoặc bài bạc thức thâu đêm, ca hát thâu đêm. Những cái đó phải kiên quyết dứt bỏ. Suốt một đêm chơi vui, sáng ra ngủ gà ngủ gật suốt ngày, không tỉnh táo, thì người đó là người rất mê si. 

4. Phải rèn luyện nghị lực, chiến thắng những trạng thái lười biếng. Nghĩa là lúc nào cũng phải tìm cách rèn luyện nghị lực của mình chiến thắng lại những trạng thái lười biếng, vì trong trạng thái lười biếng cũng sanh ra buồn ngủ. 

5. Lấy nước súc miệng, rửa mặt, hoặc tắm cho lạnh. Khi biết trạng thái lười biếng của mình thì làm cho nó lạnh, làm cho nó sợ thì nó mới hết. Cái thứ lười biếng thì lấy roi mà quất cho đau, lấy cây mà đập cho nó khổ, lấy dao mà rạch rồi lấy muối xát vô vết thương thì hết buồn ngủ. Đó là những trạng thái lười biếng mà làm như vậy thì nó sẽ hết. 

6. Ngồi chỗ nguy hiểm cho tâm sợ hãi. Nghĩa là mình ngồi trên ngã ba nhánh cây hoặc ngồi trên tảng đá cheo leo, làm cho nó tỉnh táo, nó không dám ngủ, nó sợ chết nên luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác. Khi mình ở trên núi mà thấy buồn ngủ thì trèo lên cục đá nào cheo leo rồi ngồi trên đó. Nếu mày ngủ thì cho mày rớt xuống chết cho rồi. Vì vậy nó sẽ tỉnh táo, không dám ngủ. Phải tìm mọi cách để phá cái ngủ chớ nếu không thì chúng ta sẽ tìm cách chui trong thất hoặc là chui trong giường mà ngủ cho khỏe thân. 

7. Đọc kinh sách. Nếu mình thấy buồn ngủ thì lấy kinh sách ra đọc rồi suy tìm nghĩa lý trong đó, thì một hồi là nó tỉnh táo.

8. Ngồi quán xét, tìm xem cái ngủ ở đâu. Ở đây Thầy nêu ra cách thức để quý thầy thấy biết được cách mà phá ngủ. Quán xét xem cái ngủ từ đâu đến, từ đâu nó làm cho tay chân, thân thể bần thần lười biếng như thế này. Đó là các thầy dùng sức quán xét, đặt niệm ngủ trước mặt rồi ngồi đó mà quán xét cái ngủ, một lúc thì cái ngủ nó mất. 

9. Xem sao trên trời, tìm hiểu lý do diễn biến của vũ trụ. Đây là cách thức cho người thích thiên văn, cho tâm thích thiên văn, thì lúc buồn ngủ người đó đi ra nhìn trời, nhìn sao, tìm hiểu sự diễn biến trong vũ trụ, thấy sao này xẹt qua, sao kia lặn mất. Điều đó làm cho người này thích thú mà quên ngủ. 

10. Đem sách truyện hình ra xem. Người thích xem hình ảnh đánh nhau hoặc thế này thế khác thì khi buồn ngủ, đem sách truyện hình ra xem một hồi thì hết buồn ngủ. 

11. Đi kinh hành tu tập tỉnh thức. Cách thứ 11 này là cáchphá ngủ của người tu sĩ chúng ta đó. Chúng ta phải tập tỉnh thức, phải đi kinh hành cho nhiều, đừng lười biếng thì nó sẽ tỉnh thức được. Và biết cách áp dụng pháp hướng để nhắc tâm thì chúng ta sẽ tỉnh thức mà phá cái buồn ngủ.

12. Tu vô lậu, quán xét thân tâm, suy tìm sự vô thường, khổ, vô ngã và nguyên nhân của bệnh tật ở trong thân của chúng ta. Chúng ta dùng Định Vô Lậu, dùng Định Chánh niệm tỉnh thức, chúng ta cũng có thể phá được cái buồn ngủ.

13. Đi kinh hành trau dồi lòng từ tâm của mình dưới bước chân đi, tránh giẫm đạp chúng sanh. Khi ban ngày cũng như khi ban đêm thì chúng ta lại hướng tâm để nhắc chúng ta tránh dẫm đạp chúng sanh. Còn một câu ám thị mà Thầy chưa nhắc là khi đi ban đêm con mắt chúng ta không nhìn thấy chúng sanh ở dưới chân, thì chúng ta không thể nào làm sao tránh dẫm đạp lên chúng sanh được, vì vậy chúng ta phải tác ý nhắc, bởi vì Phật đã nói "đạo giao cảm ứng nan tư nghì". Tâm chúng ta có lòng thương thì cảm ứng được với chúng sanh cho nên chúng ta phải dùng câu hướng như thế này:

"Ban đêm tôi đi kinh hành, không thấy chúng sanh. Xin tất cả chúng sanh trên đường tôi đi kinh hành hãy tránh cho tôi đi".

Mình phải hướng câu tác ý đó để giao cảm với chúng sanh, nên khi bước chân mình vừa đến là tất cả chúng sanh đã rời khỏi. Đó là vừa phá buồn ngủ mà cũng vừa trau dồi tâm từ của chúng ta dưới bàn chân trong lúc đêm khuya thanh vắng, trong lúc đêm tối mờ không thấy mặt đường. 

14. Dùng pháp hướng như lý tác ý:

"Cái ngủ này vốn không có trong thân tứ đại này, chỉ do ngu si, mê muội, lười biếng, thiếu tinh tấn nên mới thọ sanh. Thọ vốn vô thường, lúc có lúc không. Vậy thọ uẩn phải dừng trạng thái ngủ nghỉ mê muội này, không được tái diễn, phải chấm dứt ngay"

Đó là câu pháp hướng cuối cùng để chúng ta phá cái thọ mê ngủ này, phá cái thọ ngu si này. Thường khi chúng ta đặt niệm đó như vậy là phải ngồi kiết già lưng thẳng hẳn hòi, phải dùng câu này để hướng tâm ám thị một cách chắc chắn, đánh đuổi cái thọ ngu si này ra. Chỗ chữ "phải chấm dứt" phải nói mạnh như truyền lệnh, càng mạnh càng tốt, làm cho tất cả sức tinh thần của chúng ta dồn tại đó mà đuổi những cơn lừ đừ say say của cơ thể. Nói như truyền lệnh là dùng tâm lực của tinh thần mạnh bạo làm cho cơn ngủ mau lui bước. 

Quý thầy thấy Thầy chỉ dạy cho quý thầy những pháp rất cụ thể. Nếu quý thầy gằn dọng nhiều lần ở chỗ "phải chấm dứt" cho nó mạnh bạo. Trừ cơn buồn ngủ ở trong thân của quý vị thì phải dùng lực mà đẩy ra. Tác ý như vậy chừng hai ba câu tác ý là quý thầy đã tỉnh táo, không còn buồn ngủ nữa. 

Hôm nay Thầy dạy cho quý thầy xả tâm vô lượng ngủ để cho biết cách xả cho tận gốc của nó. Khi đối với bệnh buồn ngủ phải thông minh sáng suốt, quý thầy phải sáng suốt thông minh chớ không thể thiếu sự thông minh mà đối trị nó được, nếu không thông minh sáng suốt thì buồn ngủ lại buồn ngủ nhiều hơn. Nghĩa là mình trị nó mà mình lại buồn ngủ hơn. Còn nếu thông minh sáng suốt, mình trị đúng bệnh của nó thì nó mau hết. Nếu không thông minh sáng suốt thì vất vả hơn nhiều.

Cho nên quý thầy tu theo đạo Phật thì thứ nhất là siêng năng, bền chí đi kinh hành nhiều.Quý thầy theo đạo Phật thì phải thực hành như Phật, đi kinh hành là cách thức như Phật ngày xưa, đức Phật luôn luôn đi kinh hành ở trong khu rừng của ông ta. Và chúng ta nên bắt chước gương hạnh của Phật mà luôn luôn nên đi kinh hành như vậy để phá đi những cái mê muội này làm cho tỉnh thức luôn luôn. 

Luôn luôn phải trau dồi tâm phá ngủ dưới chân mình bằng pháp hướng tâm như lý tác ý: 

"Buồn ngủ phải lui đi! Lười biếng phải lui đi!".

Đó là những câu ám thị ngắn mà chúng ta vừa đi vừa nhắc nó khi biết tâm mình đang buồn ngủ, đang lừ đừ, đang không tỉnh táo, rồi tiếp tục chúng ta lại hướng tâm nữa: 

"Cơn mơ mơ, say say, hãy lui đi! Thân tâm phải tỉnh táo".

Chúng ta nhắc nhiều lần như vậy trong khi đi, nhắc như ra lệnh một lúc thì hết hôn trầm, thùy miên.

Quý thầy thấy mình có pháp để phá; nhưng từ lâu tới giờ chưa có ai triển khai ra được cho nên mình không biết mà phá. Vì vậy mà cứ buồn ngủ thì phải chịu buồn ngủ thôi, không bao giờ hết được. Hôm nay với giáo án này, Thầy dạy hết tất cả những kinh nghiệm của Thầy để quý thầy tự mình lấy pháp làm chỗ nương tựa vững chắc mà trau dồi thân tâm của mình, để làm chủ sanh tử. 

Đến đây quý vị đã hiểu ngũ dục lạc có sức cám dỗ và lôi cuốn rất mạnh, không có một sức nào cưỡng lại được nếu không phải là pháp môn Giới Định Tuệ của đức Phật. Toàn cả tu sĩ trên thế gian này đều bị ma ăn, ma danh, ma sắc dục, ma lợi, ma ngủ lôi xuống địa ngục tất cả. 

Có những tu sĩ khổ hạnh trong ăn uống thế mà bị ma dục lạc danh lôi cuốn. Nghĩa là vị tu sĩ sống khổ hạnh trong ăn uống, không để cho ăn uống cám dỗ nhưng ma danh vẫn cám dỗ họ, do vậy họ thường diễn những trò kỳ đặc từ hình ảnh này đến hình ảnh kia cho quần chúng xem để ca ngợi khen tặng họ. Đó là họ sống theo danh. Họ thắng được cái dục lạc này thì bị cái dục lạc khác lôi cuốn. Thật là buồn cười, tu dở chết dở sống thế mà đem ra mua một cái danh hão của thiên hạ. 

Nếu ai đã từng theo Thầy tu hành thì biết tu không phải dễ thế mà tu được lại đem ra mua danh như vậy thì quý vị nghĩ sao? Vị tu sĩ có thoát khỏi ngũ dục lạc không, mà không thoát khỏi ngũ dục lạc thì có giải thoát không? Người nhập định toàn cả cơ thể không còn hoạt động, gần giống như cái thây ma người chết, mà mời các nhà khoa học đến đem máy đo điện tâm đồ họ sẽ kinh ngạc đến bậc nào. Từ đó báo chí đăng khắp thế giới như vậy không phải là người đại ngũ dục lạc thế gian sao, như vậy có phải là giải thoát hay không? 

Người tu hành giải thoát là phải xa lìa năm thứ dục lạc, sống đời sống thiểu dục tri túc, không nhà không cửa, sống vô gia đình, không có của cải tài sản nhỏ, tài sản lớn. Nhìn đời sống như vậy chúng ta biết đó là những bậc chơn tu, giới đức, thiền đức, những bậc đã giải thoát ra khỏi vòng thế tục. Còn những tu sĩ biểu diễn những trò kỳ đặc để mua danh, mua lợi thì có gì giải thoát đâu. Họ chỉ làm trò giải trí cho thiên hạ xem chơi. 

Đây là những câu hướng tâm để dẫn tâm vào đạo giải thoát các ác pháp. Nhưng trước hết quý vị phải hiểu, phải biết, trước khi dùng pháp này tu hành dứt bỏ các ác pháp, quý vị phải “tâm chuyên nhất cảnh”, nghĩa là như thế nào? Không được đụng đâu ngồi đó mà dùng pháp hướng, pháp tùy… Muốn tu một pháp nào thì phải tìm nơi ngồi cho nghiêm chỉnh, bởi vì pháp không phải tu tập bất kỳ chỗ nào mà có thể giúp mình ra khỏi ác pháp, cứu mình ra khỏi đau khổ của cuộc đời, cho nên phải xem pháp là vật quý báu, phải nghiêm chỉnh trước khi dùng một câu hướng, trước khi dùng một sự quán xét nào mới có kết quả.

Người tu trước khi khởi động cái gì phải chủ động điều khiển: ngồi xếp bằng, lưng thẳng, ngồi thật yên tịnh, hít 10 hơi thở bình thường cho tâm gom vào trong hơi thở và tâm chuyên nhiếp vào, bám chặt vào hơi thở, đặt niệm hướng tâm này ngay trước mặt mà dẫn tâm dứt trừ các ác pháp. Trong khi tu tập không nên để mất niệm tức là thất niệm, nghĩa là lúc nào cũng nhớ niệm đặt trước mặt, không được quên, không được khi thì nhớ việc này việc nọ mà xao lãng niệm đang đặt trước mặt. Cho nên Phật dạy thất niệm thì không đạt được kết quả gì hết. Thất niệm thì tâm mê hay tâm động thì sự tu không kết quả. Khi đặt niệm trước mặt thì phải tập trung tâm trong niệm đó, để quán xét về niệm đó, suy tư về niệm đó, tìm ra gốc niệm đó ta mới thấy suốt nó. Có tu nghiêm chỉnh như vậy mới quét sạch lậu hoặc, chứ không nghiêm chỉnh thì tu ngàn đời không đạt kết quả gì ráo. Khi niệm đó dứt rồi thì tiếp niệm khác, sau khi có một khoảng cách giữa hai niệm, nghĩa là sau khi quán xét xong thì xả niệm đó ra, rồi mới đặt niệm khác tiếp theo, chứ không được không xả niệm vừa quán xét xong. Câu hướng tâm cũng vậy, hướng tâm câu trước cho niệm trước xong rồi thì phải nghỉ xả ra, rồi mới đặt câu hướng tâm khác cho niệm kết tiếp. 

Để trau dồi tâm, hay hành vi, hay dứt bỏ gì thì phải có khoảng cách giữa các câu tác ý hướng tâm. Tâm phải yên lặng theo 10 hơi thở bình thường. Cũng giống như người huấn luyện voi, bò trâu… sau khi huấn luyện chúng thuần thục xong một pháp nào thì phải để cho chúng yên tịnh một thời gian, sau đó mới huấn luyện qua pháp khác. Đức Phật dạy rất kỹ chỗ này: Khi tu định Vô lậu cũng như định Chánh niệm Tỉnh thức hay các thứ định khác, để tâm gom lại thì phải trở về hơi thở cho nên Phật nói: định niệm hơi thở ra hơi thở vô khéo tác ý. Câu này ý thế nào? Quý vi đang đi kinh hành mà muốn cho tâm gom vào trong bước đi thì hơi thở là đối tượng trước mặt nên tập trung tâm vào đó rất dễ, nên có câu hướng tâm “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” để tâm tập trung trong hơi thở, sau đó tác ý “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” thì tâm rời khỏi hơi thở để tập trung vào chân bước tức khắc. Sau khi đi một lát, đứng lại tác ý “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” như vậy tâm tập trung vào hơi thở - vì hơi thở nằm trong thân, xả hơi thở ra, tác ý đi kinh hành thì tâm cũng vẫn ở trong thân, như vậy thì tu rất kết quả, tâm luôn luôn tập trung vào hơi thở rồi quan sát thân hành, chứ không phải tâm luôn luôn nằm dưới chân của quý vị, mà luôn luôn nằm dưới chân thì bị thất niệm cho nên sự tỉnh giác chỉ là mơ hồ không phải thực sự là tỉnh giác, tâm có tụ điểm hơi thở để quan sát tất cả các hành động của thân, sức tỉnh giác ngày càng rõ ra, chứ không trở về hơi thở thì dễ bị thất niệm, không tỉnh giác. Cho nên khi nhập định, lúc nào tâm cũng bám sát hơi thở cho dù nhập tới định nào vì hơi thở là tụ điểm.

Trong thời gian khoảng cách giữa hai hơi thở phải giữ không cho có tạp niệm nào xen vào, biết rõ từng hơi thở ra hơi thở vào; sau khi theo dõi 10 hơi thở bình thường thì tác ý câu trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm để trau dồi lòng thương yêu.

***

Để chấm dứt bài Tứ Vô Lượng Tâm thầy xin đọc lại một bài kệ của đức Phật. Trong 10 pháp ác, bây giờ mình đã tới cái si của tham sân si, là mình đã chấm dứt 10 pháp ác rồi, cho nên chúng ta đọc lại một bài kệ của đức Phật để chúng ta tóm lại ý của nó. Đây bài kệ của đức Phật:

Ai phản lại chánh pháp
Tham sân si nuôi lớn
Thanh danh bị sứt mẻ
Như trăng khuyết đêm đen

***

Ai không phản chánh pháp
Tham sân si đoạn dứt
Thanh danh được tròn đủ
Như trăng tròn mười sáu

Bây giờ mình hiểu được cái chánh cái tà rồi, cái ác cái thiện rồi, nếu mình còn phản lại thì là một tội rất lớn. Nghĩa là biết rồi mình còn phạm phải thì coi như con người của mình bị sứt mẻ, không còn đầy đủ. Trăng khuyết mà còn đêm đen nữa thì các thầy biết rằng trăng nó khuyết, nó nhỏ xíu, thì ánh sáng đâu có, mà đêm đen nữa thì nó mờ tối vô cùng. Người phản lại chánh pháp, phản lại các pháp thiện, thì tham sân nuôi lớn, thanh danh bị sứt mẻ như trăng khuyết đêm đen.

Qua bài kệ của đức Phật, nếu chúng ta đi vào chánh pháp thì tham sân si, 3 ác pháp này đoạn dứt thì 7 pháp ác kia nó cũng sẽ mất luôn. Do đó chúng ta sống như trăng tròn 16, tròn đầy không có thiếu khuyết một chỗ nào hết. Trăng rằm còn khuyết một chút, chứ trăng 16 thì nó tròn thiệt tròn, không có thiếu chỗ nào, tức là giải thoát hoàn toàn. Chánh pháp giúp cho quý thầy thấu rõ chơn lý của đời người, đó gọi là Minh. Các thầy không rõ chánh pháp nên không thấy chân lý đời là ác pháp, là khổ đau, nên phóng tâm chạy theo vật chất, ham muốn thế gian pháp, cái không hiểu này gọi là Vô Minh.

Mình chạy theo ham muốn, cái đó gọi là Vô Minh. Còn cái mình hiểu đúng chánh pháp thì gọi là Minh. Do không hiểu nên lầm chấp ác pháp là thiện pháp. Do không hiểu tưởng đời sống con người là hạnh phúc, nào ngờ là khổ đau, là không hạnh phúc. Người đời vì lầm nên xây dựng an vui hạnh phúc trên một mảnh đất vô thường, không vững chắc, thay đổi liên tục không dừng nghỉ. Vì thế công trình kiến tạo và xây dựng hạnh phúc, an lạc cho nhân loại là một công trình dã tràng.

Quý thầy thấy người ta phát minh cái này cái kia để người ta đem hạnh phúc cho con người, nhưng càng phát minh thì càng đem lại sự đau khổ nhiều cho con người. Đó là vì xây dựng trên mảnh đất vô thường, mọi vật đều vô thường mà người ta nghĩ đó là thường, người ta lầm chấp cho nên người ta càng cố gắng xây dựng lên thì càng đem lại nỗi khổ cho nhân loại. Càng xây dựng văn minh boa nhiêu thì con người lại càng khổ bấy nhiêu, do họ chỉ xây dựng ngọn mà không xây dựng gốc. 

Do vô minh này mà loài người trên hành tinh này không lúc nào được hòa bình, chỗ này không chiến tranh thì chỗ khác chiến tranh. Càng khoa học, máy móc càng tinh vi thì chúng ta thấy trên thế giới lúc nào cũng có nước có chiến tranh, không bao giờ hết. Tưởng là phục vụ cho nhân loại, cho con người được thanh bình, được an vui, được thương nhau nhưng cuối cùng họ vẫn giết chóc nhau. Họ vẫn tìm mọi cách: về quân sự thì họ tìm mọi cách giết chóc bằng súng đạn, về kinh tế thì họ cũng tìm mọi cách để hại các cơ xưởng, các công trình của kẻ khác, làm cho kinh tế của kẻ khác suy sụp xuống. Đó là những hậu quả của sự văn minh, sự tiến bộ mà xây dựng trên cái ngọn, không xây dựng ở cái gốc. Vì xây dựng trên cái ngọn là xây dựng trên mảnh đất vô thường, xây dựng trên các vật vô thường thì làm sao mà có sự hạnh phúc an vui vĩnh cửu được.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét