Thứ Ba, 19 tháng 11, 2024

Pháp Tu Cư Sĩ - Tứ Vô Lượng Tâm - THÀNH PHẦN VÀ HÀNH TƯỚNG CỦA TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

 TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT


 

II.- PHÁP TU CƯ SĨ

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM (Bài 1)

A.- THÀNH PHẦN VÀ HÀNH TƯỚNG CỦA TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục dạy về trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm. Tại sao phải trau dồi nó? 

Chánh Đức nói với Thầy: "Thầy cho con cái địa danh mà chưa cho con cái địa chỉ, địa danh thì chúng con biết rồi, nhưng mà địa chỉ chưa có thì làm sao chúng con tới nhà được". 

Trong giai đoạn 1 người cư sĩ, bắt đầu khi chúng ta thông hiểu được Phật pháp rồi, thông hiểu được những giáo pháp mà Phật dạy cho người cư sĩ phải tu cái gì. Bây giờ các con đã hiểu cái gì rồi? Các thầy hiểu Thập Thiện, phải không? Thầy đã giảng Thập Thiện rồi thì đó là mình hiểu rồi. Nhưng các con chưa trau dồi, chưa tu tập gì được đâu. Nghe nói Thập Thiện nghĩa là thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, v.v... nhưng các con chưa làm được. Nghe thì hiểu chứ chưa làm được đâu. Bây giờ trau dồi để làm cho được.Đây là vấn đề quan trọng, đây là cái địa chỉ để các con đi tới cái nhà Thập Thiện đó. 

Bởi vậy, Thầy dạy cho các con biết cách thức để tu tập, chứ không thể nàobất đồ tự dưng nhào vô, ngang xương nhào vô tu tập để chứng thành đạo quả Bồ đề được liền đâu. Phải đi từng chút một, từng bước một. Cái tâm của chúng ta bây giờ đang là cái tâm tham sân si, mà không trau dồi nó thì làm sao nó hết tham sân si. Mà phải trau dồi bằng cách nào, lấy cái gì để trau dồi? Đâu phải hằng ngày mình nhắc nó hết tham, sân, si, rồi tự dưng nó hết tham sân si sao? Không đâu. Mình phải trau dồi cái gì để đối trị cái tâm tham sân si chứ. 

Đức Phật nói tâm từ đối trị sân, cho nên, muốn hết sân thì phải trau dồi tâm từ. Bây giờ tâm chưa có từ mà lúc nào cũng nói giữ tâm không sân thì chắc chắn người đó không bao giờ có tâm không sân được. Vậy muốn trau dồi lòng từ của chúng ta thì phải trau dồi như thế nào, chứ đâu phải bảo nó "tâm từ", "tâm từ", "tâm từ", rồi có tâm từ được sao? Không có đâu. Cho nên chúng ta phải hiểu tâm từ trước.

Tâm có giá trị hay không là do ở chỗ rộng hẹp của nó. Muốn tâm có giá trị thì phải trau dồi, tập sống được như tâm Phật, tâm thương chúng sanh rộng lớn vô bờ, vô biên. Đó, mình phải tập sao cái tâm của mình rộng lớn được như vậy, trau dồi cho nó rộng lớn được như vậy thì mình mới thấy cái chỗ dứt ác, thể hiện thiện, thì mới có thểcó được tâm thương yêu rộng lớn. Tâm không thương yêu chúng sanh thì khó có thể dứt ác được. Bởi vì lúc người ta chửi mình, mình có tâm thương yêu rộng lớn thì mình đâu phải là người bình thường kia, cho nên mình mới thấy thương người chửi mình dễ. Nếu mình là người không có tâm thương yêu rộng lớn thì nghe người ta chửi mình, chưa chắc thương người chửi mình được. Nhưng cótu tập lòng từ thì khi người khác chửi mình, mình thương họ được. Có vậy mới là tâm từ đối trịtâm sân. 

Cho nên chúng ta phải trau dồi thân tâm chúng ta cho đúng pháp. Hầu hết quý thầy cũng học Tứ Vô Lượng Tâm,chắc chắn quý thầy đã biết tâm từ, nhưng bảo quý thầy thương người chửi thì quý thầy không làm được. Thầy nói như vậy để quý thầy suy ngẫm lại con đường Thầy dẫn dắt quý thầy phải tập luyện từng chút. Tu là phải chịu khó tập luyện chứ đâu phải tu mà Thầy nói ran cổ họng, nhưng quý thầy nghe chơi không trau dồi, thì chắc chắn là Thầy mệt mỏi quá. Quý thầy phải rèn luyện, trui luyện từng chút cái tâm của quý thầy, để cho nó được từ, được bi, được hỷ, được xả. Có như vậy học mới lợi ích cho quý thầy, quý thầy mới giải thoát. Còn nếu Thầy nói để quý thầy nghe thôi thì thiệt là mệt mỏi cho Thầy, nghe để chơi thì thiệt là mệt mỏi cho Thầy. Đó là cái Thầy thấy quá khó, chớ không phải cái khó là biết ai là người nghe Thầy, ai là người không nghe.

Phật đã dạy, khi vào với đạo Phật, điều đầu tiên là người cư sĩ phải thông hiểu. Những gì thì Thầy đã cho quý thầy thông hiểu rồi đó. Những bài giảng trước là đem cho quý thầy sự thông hiểu đó, chứ chưa phải là sự tu tập. Cho nên Chánh Đức nói câu nói rất rõ ràng: "Thầy cho con cái địa danh, chứ chưa cho con cái địa chỉ". Đúng vậy! Mình phải thông hiểu tức là mình phải thông hiểu cái tỉnh đó, nơi đó ra sao, cái địa danh đó là gì, như thế nào... Mình phải thông hiểu tổng quát hết đi, rồi bây giờ bắt đầu cho địa chỉ để đến cái nhà đó. 

Đó, như vậy là Thầy đã mở ra một cái vòng để cho quý thầy thông hiểu, rồi tới đây quý thầy sẽ trau dồi, thì tức là đưa ra cái địa chỉ để quý thầy đến nhà. Sau đây là cái địa chỉ chúng ta đi, đó là quý thầy phải trau dồi, rồi tu tập và đoạn dứt ác pháp.

Bây giờ quý thầy phải thông hiểu Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào? Bây giờ mình nghe nói Tứ Vô Lượng Tâm, mình không biết tên họ nó là gì hết, không biết nó là sao hết, mình không hiểu nó là cái gì nữa thì như vậy là chỉ cái danh từ suông thôi. Cho nên mình cần phải hiểu thêm nó.

Tứ là bốn; Vô Lượng Tâm là tâm rộng lớn mênh mông, phủ trùm tất cả chúng sanh, không thể lường, không thể tính được. TứVô Lượng Tâm là bốn cái tâm rộng lớn phủ trùm tất cả chúng sanh, không thể tính lường được chỗ nào hết, nghĩa là vô bờ bến. Vô Lượng Tâm là tâm vô cùng rộng lớn, thoát ra khỏi mọi sự ràng buộc các dây mơ rễ má của mọi tâm lý tình cảm, thương ghét, giận hờn, tị hiềm, kiêu căng, nghi ngờ, ngã mạn của phàm phu, phá vỡ tà kiến, thân kiến, chấp kiến trước mọi trí tuệ mê mờ, lầm lạc.

Đó là cái tâm nó như vậy đó. Nó làm cho chúng ta, cái thứ nhất là chúng ta hiểu nó rộng lớn mênh mông; cái thứ hai, nó rộng lớn mà thoát ra ngoài những sự ràng buộc của những sự trói buộc tình cảm của chúng ta, rồi nó thoát ra ngoài những thương ghét giận hờn, tỵ hiềm, kiêu căng, ngã mạn, mà nó còn thoát ra ngoài những tà kiến, thân kiến, chấp kiến trước mọi trí tuệ mê mờ, lầm lạc. Đó, chúng ta trau dồi nó, để chúng ta thấy được, chúng ta thoát ra được, cho nên nó rộng lớn như vậy, nó phải phủ trùm hết. Phải hiểu biết nó rộng lớn cho nên không có một tà kiến, không có một tình cảm nào có thể xen vào Tứ Vô Lượng Tâm này được. Chứ không phải là chúng ta tu Tứ Vô Lượng Tâm mà chúng ta hiểu một cách cạn cợt thì làm sao rộng lớn được như vậy. Cho nên chúng ta càng trau dồi nó, càng ngày càng trau dồi nó thì nó càng rộng lớn và nó càng rộng lớn thì sự hiểu biết của chúng ta càng rộng lớn. Cho nên từ đó chúng ta mới thực hiện được tâm vô ngã, chứ đâu phải là dễ vô ngã. Nếu không có bốn cái tâm này Từ Bi Hỉ Xả, thì chúng ta khó thực hiện được tâm vô ngã.

Vô Lượng Tâm còn có nghĩa là đẳng tâm, là tâm bình đẳng. Tâm này tự nhiên, không so đo, cao thấp, hơn kém, phổ biến, ban rải mọi nơi, mọi chỗ, không giới hạn. Nghĩa là cái tâm bình đẳng không thấy có người hơn mình, không thấy mình hơn người, người nào cũng bình đẳng hết, từ con vật nhỏ tí ti cũng bình đẳng với mình, nghĩa là xem nó như mình chớ không thấy nó là con vật nhỏ. 

Còn chúng ta thì thấy có lớn, có nhỏ, đối xử với nhau nghe có khác lạ. Thấy con kiến thì mình đối xử như một con vật, chớ còn người mà tâm vô lượng này thì họ đối xử con vật như chính đối xử với một con người khác. Đó là những định nghĩa để chúng ta thấy được tâm vô lượng rộng lớn như vậy, nó vượt thoát mọi tà kiến, chớ không phải hẹp hòi ở trong chữ ban rải đối với chúng ta thương yêu một cách cạn cợt. Khi hiểu biết được như vậy thì chúng ta hãy cố gắng trau dồi nó, làm cho nó được rộng lớn như vậy.

Do trau dồi tâm bình đẳng này làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh thoát khổ, nên tâm này có công năng mang đến cho con người vô lượng phước báu. Nghĩa là trau dồi tâm bình đẳng này thì không bao giờ làm phiền lòng người nào hết, bởi vì mình biết ai cũng như mình hết, mình biết ai cũng thọ khổ như mình hết cho nên trước cái khổ của họ thì mình dùng tâm bi liền tức khắc. Người ta đang tức giận mình, thì ngay đó là tâm bi mình phải thực hiện liền. Như Thầy đã dạy, tâm từ là khi người ta bình thường, người ta không giận, không hờn gì hết thì tâm từ của mình đối xử mọi người rất là kính trọng họ, rất là cung kính họ, luôn luôn không bao giờ nói một lời nặng với họ, đó là tâm từ. Còn tâm bi là khi thấy người ta giận thì ngay đó biết người ta đang khổ, do đó mình thực hiện tâm bi là trước cái khổ của người khác, một người đang bị bệnh, một người đang bị tai nạn thì mình mới dùng tâm bi. Tới cái chỗ đó Thầy sẽ dạy rất kĩ cho quý thầy thấy để chúng ta trau dồi tâm bi như thế nào, mà trau dồi tâm từ như thế nào.

Nếu Tứ Vô Lượng Tâm này, cái tâm bình đẳng này mà chúng ta đã trau dồi được thì thế giới này, con người này hưởng hạnh phúc, an vui, thanh bình, không bao giờ có chiến tranh, không bao giờ có giặc giã hết. Bởi vì, từ con vật mà chúng ta còn biết thương y như mình thì thử hỏi con người làm sao chúng ta không thương? Con người đã thông cảm những nỗi khổ của nhau trong cuộc sống, có đâu lại tranh giành giết nhau. Cho nên tâm từ biến chúng ta trở thành một con người chung của mọi người. Bốn tâm vô lượng này không những làm lợi ích cho chúng sanh an lành, hạnh phúc mà còn ban rải cho mọi nhà, mọi nước và cả thế giới trật tự, an ninh, thanh bình, không chiến tranh. 

Vô lượng ở đây quý thầy phải hiểu nó bao hàm nhiều nghĩa chứ không phải như hồi nãy Thầy nói tổng quát, chung chung để cho quý thầy thấy cái vô lượng của nó. Nhưng ở đây chúng ta phải phân ra để thấy được từ vô lượng có mấy nghĩa bao hàm sau:

1. Vô lượng nhân lành: đem lại nhân lành cho mọi người, không làm cho ai bị nhân ác nào. Chẳng hạn một người chửi Thầy, Thầy nhịn, Thầy nhẫn, Thầy không bao giờ chửi lại họ, mà Thầy còn xuống nước năn nỉ họ, làm cho họ mát lòng, mát dạ, tức là gieo cái nhân lành cho họ, họ không còn chửi Thầy nữa. Đó là vô lượng nhân lành. Còn nếu nghe người ta chửi mình mà mình chửi lại, đó là cái nhân ác, nó tiếp tục cái nhân ác khác nữa.

2. Vô lượng quả đẹp: Nghĩa là đem đến cho cuộc sống của chúng ta luôn luôn đẹp đẽ, không bao giờ có sự phiền toái trong đó, cho nên gọi là vô lượng quả đẹp. Vô Lượng Tâm đến đâu thì đem cái đẹp đẽ đến đó, cái an vui đến đó.

3. Vô lượng chúng sanh: đối với chúng sanh nào cũng được an lành, cũng được đẹp đẽ hết chứ không phải riêng có con người thôi, mà có cả loài vật. Thầy ví dụ, như chúng ta có những y áo bị một bầy kiến vào; chúng ta thực hiện tâm từ thì không bao giờ chúng ta làm thương tổn đến sinh mạng của con kiến. Chúng ta nghĩ tiếc bộ quần áo, y áo của mình, đem mà đập, giũ thì biết bao nhiêu con vật chết. Như vậy là quý thầy không có trau dồi tâm từ. Loài vật biết trời mưa, trời gió mới vô đó để nó nằm, nó ẩn núp ẩn mưa, ẩn gió lạnh. Chúng ta không có thương, không nghĩ đến cảnh khổ của loài vật. Giả dụbây giờ như mình ở ngoài trời trong khi trời mưa trời gió chúng ta có chịu nổi không? Thì con kiến nhỏ nhít hơn, nó lạnh lẽo nên nó trốn, nó sợ nước trôi chết đi, nó quá sợ, nó vô nhà chúng ta. Nếu chúng ta không muốn nó vào núp trong y áo, vào trong nhà thì chúng ta tìm cách ngăn ngừa nó trước đi, nó không vô, nó đi chỗ khác lánh thân. Đằng này để cho nó bò ngập nhà mình, rồi quét, rồi đùa, rồi hốt, rồi đốt, rồi giải thì thử hỏi tâm từ của chúng ta chỗ nào, như vậy có đau khổ chúng sanh không? Như vậy là không có vô lượng chúng sanh được.

4. Vô lượng thế giới: nghĩa là tất cả thế giới, không phải trong cái thế giới của chúng ta không mà cả thế giới trùng trùng điệp điệp trong không gian này. Thế giới nào chúng ta cũng phủ trùm hết.

5. Vô lượng đời kiếp: nghĩa là từ kiếp này đến kiếp khác, tức là nói về không gian thì vô lượng thế giới, mà nói về thời gian thì vô lượng đời kiếp. Nghĩa là kiếp nào, đời nào nó cũng đẹp đẽ, cũng tốt đẹp, đem đến cho mọi người, mọi sinh vật ở trên thế giới này đều được an lành, đều được tốt.

Đó là năm điều rộng đẹp như vậy bao hàm trong nghĩa của vô lượng.

Bây giờ Thầy nói về thành phần của bốn cái tâm vô lượng này. Thành phần và hành tướng của bốn tâm vô lượng là:

1. Từ vô lượng

2. Bi vô lượng

3. Hỷ vô lượng

4. Xả vô lượng


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét